Trái phiếu hạ tầng - nguồn lực mới cho sự phát triển

Thứ Hai, 08/12/2025, 05:11

Các chuyên gia nhận định quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng sẽ huy động được nguồn lực lớn, là “miếng ghép” quan trọng cho thị trường vốn đang cần để phát triển hạ tầng nói riêng, nền kinh tế nói chung.

Quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng là 1 trong hai đề xuất quỹ huy động vốn được Bộ Tài chính đưa vào dự thảo Thông tư sửa đổi quy định về hoạt động quỹ đầu tư, đang lấy ý kiến hoàn thiện. Đề xuất này xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý để khơi thông nguồn lực xã hội hóa, trong bối cảnh Việt Nam đứng trước nhu cầu đầu tư hạ tầng khổng lồ nhằm đạt mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045.

cao toì‚ìc bn.jpg -0
Quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng giúp huy động nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), từ nay đến 2030, Việt Nam phải cần tới gần 300 tỷ USD để có thể đầu tư hạ tầng tất cả các lĩnh vực. Sự ra đời của quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng trong bối cảnh này sẽ là nguồn huy động vốn có ý nghĩa trọng yếu với nền kinh tế, hoặc mang hiệu ứng lan tỏa tích cực, khi giúp giải quyết được nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án, và cho các cấp đầu tư từ trung ương, địa phương đến doanh nghiệp.

Theo dự thảo, Quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng là quỹ đóng đầu tư vào các loại trái phiếu được phát hành để phát triển hạ tầng, công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, tiền gửi và chứng chỉ tiền gửi với tỷ trọng đầu tư vào các tài sản này chiếm từ 65% giá trị tài sản ròng trở lên.

Mô hình quỹ đóng, tức chứng chỉ quỹ đã chào bán ra công chúng không được mua lại theo yêu cầu của nhà đầu tư, tuy nhiên, chứng chỉ quỹ được niêm yết và giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán nên nhà đầu tư vẫn có thể chuyển nhượng khi cần. Mô hình này giúp quy mô vốn không bị biến động, tạo điều kiện cho quỹ đầu tư vào các trái phiếu hạ tầng có kỳ hạn kéo dài…

Đáng giá về vai trò của quỹ đầu tư hạ tầng, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan soạn thảo nhận định nền kinh tế đang bước vào giai đoạn cần gia tăng đột phá trong các lĩnh vực then chốt như giao thông, năng lượng, viễn thông và đô thị, trong khi dư địa từ ngân sách và tín dụng ngân hàng ngày càng thu hẹp.

Quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng vì vậy được xem là công cụ quan trọng để huy động vốn từ người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài, hỗ trợ các dự án quy mô lớn có chu kỳ đầu tư dài, yêu cầu nguồn lực bền vững và ổn định. Sắp tới, những siêu dự án như cao tốc Bắc – Nam, đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, hệ thống logistics quốc gia, hay các tổ hợp năng lượng tái tạo đều đòi hỏi quy mô vốn khổng lồ, kỳ hạn dài, đi kèm tính minh bạch và khả năng quản trị rủi ro cao. Không có thị trường vốn hạ tầng, các mục tiêu này sẽ khó có thể triển khai hiệu quả, hoặc sẽ tiếp tục phụ thuộc quá lớn vào ngân sách Nhà nước và tín dụng ngân hàng – hai nguồn lực đang ngày càng hạn chế.

Đến từ lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm đầu tư, các chuyên gia VIS Rating cũng tính toán nhu cầu đầu tư hạ tầng tại Việt Nam đến năm 2030 lên tới khoảng 245 tỷ USD, trong khi ngân sách mới đáp ứng được 70%. Số liệu thị trường cũng phản ánh sự mất cân đối về cơ cấu huy động vốn: trong 10 tháng năm 2025, gần 482.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành, nhưng hạ tầng và bất động sản chỉ chiếm 23%, còn lại chủ yếu thuộc khối ngân hàng.

Trong khi đó, các dự án hạ tầng lại đòi hỏi nguồn vốn dài hạn, ổn định - một đặc điểm khiến thị trường vốn trở thành kênh huy động tất yếu. Với quy mô tài chính trong dân cư, khối bảo hiểm, quỹ đầu tư và quỹ hưu trí còn rất lớn, quỹ trái phiếu hạ tầng được kỳ vọng gom dòng vốn phân tán và chuyển hóa thành nguồn lực trực tiếp cho các dự án thiết yếu.

Phân tích sâu hơn về lợi thế của quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng trong bức tranh chung của các kênh huy động vốn, VIS Rating cho biết cùng với đà tăng trưởng mạnh về doanh thu và lợi nhuận trong 9 tháng đầu năm 2025, nhóm doanh nghiệp vận hành hạ tầng đang bước vào giai đoạn thuận lợi hơn khi đồng thời hưởng lợi từ chính sách hỗ trợ, sự cải thiện của hệ thống kết nối và sự phục hồi rõ nét của các hoạt động kinh tế - du lịch. Môi trường chính sách mới, đặc biệt là các quy định sửa đổi liên quan đến hợp tác công - tư (PPP), đã đơn giản hóa thủ tục phê duyệt dự án, đồng thời tăng cường mức độ bảo vệ nhà đầu tư.

Những điều chỉnh này không chỉ rút ngắn thời gian triển khai mà còn tạo nền tảng pháp lý ổn định hơn, qua đó thu hút dòng vốn tư nhân vào các dự án hạ tầng quy mô lớn. Về mặt chính sách, trong khuôn khổ PPP mới, thẩm quyền phê duyệt được phân cấp mạnh hơn cho bộ, ngành và chính quyền địa phương, giúp giảm độ trễ dự án và nâng cao tính chủ động trong triển khai. Cơ chế chia sẻ rủi ro và bảo vệ nhà đầu tư cũng được nâng lên khi trần vốn góp công đối với các dự án đường bộ thu phí đủ điều kiện tăng từ 50% lên 70%, đi cùng với hệ thống tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư minh bạch, tiêu chuẩn hóa. “Các cải cách này sẽ mở rộng đáng kể dư địa thu hút vốn tư nhân, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu đầu tư hạ tầng vẫn duy trì rất lớn” - ông Dương Đức Hiếu - Giám đốc, Chuyên gia phân tích cao cấp từ VIS Rating nhận định.

Tuy nhiên, dù hàng loạt các lợi ích được chỉ ra khi triển khai quỹ đầu tư trái phiếu hạ tầng, song một số chuyên gia cũng nhận định cũng giống như trái phiếu doanh nghiệp nói chung, trái phiếu hạ tầng dù là kênh huy động vốn quan trọng cho các dự án cơ sở vật chất, mang lại thu nhập ổn định, an toàn hơn cổ phiếu, nhưng cũng có rủi ro nhất định.

Chưa kể, trong báo cáo của VIS Rating đã cảnh báo một thực tế cần lưu ý, đó là chất lượng tín nhiệm yếu kém và thiếu thông tin minh bạch là lý do chính khiến nhiều nhà đầu tư tổ chức rút lui khỏi thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói chung và trái phiếu hạ tầng nói riêng. Cùng với đó, các doanh nghiệp dự án hầu hết đều là pháp nhân mới, không có lịch sử tín dụng, phụ thuộc hoàn toàn vào dòng tiền của một tài sản đơn lẻ và gánh rủi ro thi công kéo dài tới 15-20 năm.

Bởi vậy tổ chức này khuyến nghị những công cụ nền tảng là xếp hạng tín nhiệm để tăng minh bạch thông tin và thiết lập cơ chế bảo lãnh nhằm đặt nền móng cho một thị trường trái phiếu minh bạch và bền vững hơn. “Không chỉ cần khung pháp lý phù hợp, Việt Nam cũng cần phát triển hệ sinh thái gồm tổ chức xếp hạng tín nhiệm, định chế bảo lãnh, cơ sở hạ tầng thông tin minh bạch, cùng với đội ngũ nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp”, chuyên gia khuyến nghị.

Hà An
.
.
.