Nhiều rào cản khiến năng suất lao động của Việt Nam thấp
Ngày 29/11, với sự hỗ trợ của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thông qua Dự án Tăng cường năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân Việt Nam (IPS-C), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam”.
Ông Đặng Đức Anh, Viện phó CIEM cho biết, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trong 10 năm 2011-2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016-2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%).
Tuy vậy, năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và chênh lệch có xu hướng gia tăng. Trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù năng suất lao động thấp nhưng tốc độ tăng tương đối cao do quá trình chuyển dịch cơ cấu.
Trong khi đó, năng suất lao động của khu vực công nghiệp-xây dựng thấp và không ổn định, chủ yếu do tham gia ở phân khúc giá trị gia tăng thấp và sử dụng nhiều lao động, chưa thể hiện vai trò dẫn dắt và thúc đẩy tăng trưởng. Năng suất lao động của khu vực dịch vụ giữ xu hướng tăng nhưng thiếu ổn định và dựa nhiều vào các ngành dịch vụ truyền thống.
Theo vùng kinh tế trọng điểm, năng suất lao động không đồng đều, tập trung ở một số thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu,...) và chủ yếu ở hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và phía Nam.
Đáng lưu ý, tốc độ tăng NSLĐ có xu hướng giảm dần, các địa phương “dẫn dắt” trong vùng chưa phát huy hết vai trò lan tỏa, chưa đóng vai trò thúc đẩy và lôi kéo tăng trưởng của vùng.
Theo các chuyên gia, những rào cản chính đối với doanh nghiệp trong thúc đẩy NSLĐ bao gồm: Sự bất định khi đầu tư vào công nghệ; năng lực đổi mới phản ánh qua chất lượng quản lý còn yếu kém; lực lượng lao động thiếu những kỹ năng cần thiết và thiếu nguồn vốn đầu tư.
Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ hướng tới mục tiêu coi NSLĐ là động lực, nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững. Theo đó, chương trình quốc gia về tăng NSLĐ dự kiến một số chỉ tiêu như: Tốc độ tăng NSLĐ bình quân từ 6,5-7,0%/năm; tốc độ tăng NSLĐ của các vùng kinh tế trọng điểm và 5 thành phố lớn cao hơn trung bình cả nước; phấn đấu nằm trong nhóm hàng đầu của ASEAN về tốc độ tăng NSLĐ vào năm 2030; năng lực đổi mới sáng tạo (của WIPO) thuộc nhóm 40 nước đứng đầu; Chính phủ điện tử (của Liên hợp quốc) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu.