Doanh nghiệp không “mặn mà” mua sữa của nông dân
Tốc độ tăng trưởng đàn bò sữa hiện nay của nước ta đang giảm mạnh, chỉ còn 0,4% mỗi năm, đe dọa mục tiêu phát triển ngành sữa và ảnh hưởng giấc mơ cung cấp sữa tươi sạch tại chỗ cho người Việt. Theo các chuyên gia, mong ước tạo nguồn sữa tươi sạch tại chỗ, cải thiện, nâng cao thể trạng, tầm vóc người Việt Nam đang trở nên xa vời nếu tốc độ suy giảm đàn bò sữa không được chặn đứng.
Tại tọa đàm “Thực trạng và giải pháp khôi phục sự phát triển đàn bò sữa” do Hội Chăn nuôi Việt Nam phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 23/9, Theo Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam Nguyễn Xuân Dương cho biết, đàn bò sữa ở Việt Nam tăng trưởng mạnh ở mức 2 con số, 15,4%/năm giai đoạn 2010-2015 nhưng đã giảm xuống rất nhanh. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng sữa tươi nguyên liệu cũng giảm nhanh, từ 17,7%/năm giai đoạn 2010-2015 xuống còn 6,7%/năm giai đoạn 2015-2020 và chỉ còn 3,4%/năm giai đoạn 2020-2024.
Đây là những con số buồn, đáng báo động, mục tiêu tăng quy mô đàn bò sữa, phát triển ngành công nghiệp sữa của Việt Nam đang bị đe dọa; sinh kế của nhiều hộ chăn nuôi bò sữa đang đứng trước thách thức nghiêm trọng. Mong ước tạo nguồn sữa tươi sạch tại chỗ, cải thiện, nâng cao thể trạng, tầm vóc người Việt Nam đang trở nên xa vời nếu tốc độ suy giảm đàn bò sữa không được chặn đứng.
Về nguyên nhân, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng lượng sữa nguyên liệu và thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng cao. Sữa và các sản phẩm từ sữa phát triển quá nóng gây nhiễu loạn thị trường. Sản phẩm sữa kém chất lượng tràn lan, gây sức ép không nhỏ với các dòng sản phẩm chất lượng. Trong khi đó, việc thu mua sữa tươi nguyên liệu không được các doanh nghiệp “mặn mà” càng thêm khó khăn cho người chăn nuôi.
Trong khi số lượng đàn bò sữa sụt giảm thì theo ông Dương, ngược lại, năng suất sữa của đàn bò trong nước tăng rất nhanh, từ trung bình 5 tấn/con/chu kỳ giai đoạn 2010-2015 đã tăng lên 7 tấn/con/chu kỳ trong giai đoạn 2020-2024. Việt Nam là nước có năng suất bò sữa cao nhất trong khu vực. Ông Dương nhấn mạnh, kinh nghiệm từ các nước lớn trên thế giới cho thấy ngành công nghiệp sữa phát triển đúng nghĩa phải có ngành chăn nuôi bò và gia súc đủ mạnh cho sữa phát triển. Trong khi thị trường sữa của Việt Nam còn rất lớn, bình quân sữa/người dân còn rất thấp.
Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam đề nghị cơ quan chức năng có đánh giá thực trạng giảm đàn bò sữa thời gian qua một cách nghiêm túc, có trách nhiệm, song song với xem xét, đánh giá lại bài bản công tác quản lý sản xuất kinh doanh sữa và sản phẩm từ sữa hiện nay. Theo ông Lê Việt Hải, Phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP Hồ Chí Minh, chăn nuôi bò sữa là ngành đòi hỏi đầu tư lớn, tính chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, hiện nay diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, đất trồng cỏ hạn chế, quy mô chăn nuôi nông hộ nhỏ, chi phí sản xuất cao do nhiều chi phí trung gian, trong khi việc tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định, gây ra nhiều khó khăn cho người chăn nuôi. Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa nhanh làm hạn chế quỹ đất nông nghiệp phát triển chăn nuôi bò sữa. Nhiều vùng đất sản xuất xen kẽ với khu dân cư, chưa xác định được vùng sản xuất ổn định. Trong khi chi phí nguyên liệu cao, hiệu quả đầu tư cơ giới hóa chưa phát huy tối đa. Giá sữa không ổn định khiến người chăn nuôi ngần ngại đầu tư vào cơ giới hóa và công nghệ cao.
"Nhất là vẫn chưa có các quy định về điều kiện kinh doanh và chế biến sữa phù hợp, cũng như cơ chế khuyến khích phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Điều này khiến việc nhập khẩu sữa bột hoàn nguyên trở nên thuận lợi hơn so với chế biến sữa tươi, làm doanh nghiệp không mặn mà mua sữa của nông dân", ông Hải cho hay.
Còn theo Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi), khó khăn trong phát triển đàn bò sữa xuất phát từ nhiều yếu tố. Đơn cử, nhiều hộ chưa tiếp cận được tinh bò sữa cao sản, chất lượng đàn giảm qua các thế hệ; diện tích đất trồng cỏ hạn chế, phải phụ thuộc vào thức ăn tinh mua ngoài với chi phí cao; thiếu vốn và tín dụng ưu đãi để cải thiện chuồng trại, máy móc vắt sữa, bảo quản, công nghệ và con giống. Thị trường sữa tiêu thụ phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp; giá thu mua biến động, thiếu cơ chế bình ổn, khiến nông hộ dễ bị thiệt hại. Nhiều hộ chưa được tập huấn đầy đủ, dẫn tới rủi ro dịch bệnh và chất lượng sữa chưa đồng đều. Biến đổi khí hậu, nắng nóng gay gắt, thiếu nước và dịch bệnh mới nổi cũng làm tăng rủi ro trong chăn nuôi.
Để gỡ khó cho ngành chăn nuôi bò sữa Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Dương cho rằng, cần tập trung xây dựng mối liên kết bền vững giữa nông dân nuôi bò và doanh nghiệp thu mua, chế biến sữa. Thay vì sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, ngành chăn nuôi cần hướng tới chuỗi liên kết khép kín, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò “đầu tàu” về công nghệ, vốn và thị trường; nông dân là lực lượng trực tiếp sản xuất, đảm bảo sản lượng và chất lượng sữa nguyên liệu. Cùng với đó, doanh nghiệp cần ký hợp đồng thu mua dài hạn, cam kết về số lượng, chất lượng và giá cả minh bạch, tạo niềm tin để nông dân yên tâm đầu tư. Đồng thời, hỗ trợ kỹ thuật, giống, thức ăn và công nghệ bảo quản nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sữa tươi.
Về phía nông dân, thay vì chăn nuôi tự phát dẫn đến chất lượng sữa không ổn định và chi phí cao, cần tham gia các tổ hợp tác, hợp tác xã, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, đáp ứng tiêu chuẩn doanh nghiệp và thị trường yêu cầu. Một mối quan hệ “cùng thắng”, dựa trên sự tin tưởng và hợp tác, sẽ đảm bảo sự bền vững lâu dài cho ngành. Bên cạnh nỗ lực của nông dân và doanh nghiệp, Nhà nước và chính quyền địa phương cần đồng hành bằng các chính sách phù hợp. Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cần được hoàn thiện, minh bạch, giúp người tiêu dùng phân biệt rõ sữa tươi và sữa hoàn nguyên, bảo vệ quyền lợi người chăn nuôi bò sữa.

Áp thuế thức ăn chăn nuôi thiếu thống nhất khiến ngành chăn nuôi gặp khó
Nhiều sai phạm trong cấp phép trang trại chăn nuôi án ngữ cao tốc Bắc – Nam