Nguồn lợi thủy sản trên sông Mê Kông bị đe dọa bởi các đập thủy điện

Thứ Hai, 15/12/2014, 09:19
Sông Mê Kông có chiều dài hơn 4.800km, chảy qua lãnh thổ 6 quốc gia Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, lưu vực sông Mê Kông hiện nay và trong tương lai giữ một vai trò quan trọng không chỉ trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia ven sông mà còn cả trong phát triển hợp tác kinh tế và chính trị trong khu vực.

Do có tiềm năng rất lớn về thủy điện, những quốc gia ở phía thượng nguồn con sông này đã, đang và sẽ xây dựng nhiều dự án trên dòng chính. Việc xây dựng các con đập này trên dòng sông Mê Kông đã và đang gây ra một loạt tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới người dân của nhiều quốc gia, đặc biệt là những người dân sinh sống tại vùng hạ lưu con sông như Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó tác động lớn nhất chính là việc ảnh hưởng đến các loài cá và nghề cá trên sông Mê Kông.

Nguồn lợi thuỷ sản sông Mê Kông nguy cơ sẽ cạn kiệt bởi các đập thuỷ điện.

Theo ước tính, lưu vực Mê Kông có đến 1.200 loài cá. Tuy vậy, hiện nay mới có 781 loài cá được định danh trên lưu vực này. Riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, do có sự giao thoa giữa sông và biển nên sự đa dạng loài cá là rất cao. Các chuyên gia ước tính khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có tới 486 loài cá rất đa dạng về kích thước, từ các loài khổng lồ dài vài mét, nặng tới 300kg, đến các loài kích thước nhỏ vài cm. Cá có vai trò thiết yếu về an ninh thực phẩm ở vùng hạ lưu Mê Kông.

Lưu vực sông Mê Kông là một trong các khu vực có nghề cá hiệu quả nhất trên thế giới. Ước tính một năm người dân khu vực này đánh bắt được 2 triệu tấn cá và 0,5 triệu tấn thủy sản khác. Bên cạnh đó, nuôi trồng thủy sản cũng mang lại 2 triệu tấn cá/năm. Do vậy, khu vực hạ lưu sông Mê Kông hàng năm mang lại 4,5 triệu tấn cá và thủy sản. Nghề cá đóng góp quan trọng vào chiến lược đa dạng hóa đời sống cho nhiều người, cụ thể là người nghèo dựa chủ yếu vào dòng sông và các tài nguyên từ dòng sông để sinh sống.

Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng các đập ảnh hưởng đến các hệ thống sinh thái và thủy văn. Các con đập như một hàng rào chắn đối với sự di chuyển của loài cá. Các loài cá đánh bắt trên sông Mê Kông phần lớn là loài di trú. Ảnh hưởng của các con đập đến tuyến đường di trú khác nhau tùy từng khu vực, nhưng việc ảnh hưởng của đập đối với sự di trú của loài cá là không thể phủ nhận được. Việc xây dựng các con đập còn làm gián đoạn chu kỳ lũ tự nhiên mà các loài cá đã thích nghi hàng ngàn năm; làm cứng lòng sông do tầng đá nền ở dưới đập lộ ra và mất giá trị làm nơi sinh sống cho loài cá. Đập cũng giữ lượng trầm tích ở lại, làm mất một nguồn dinh dưỡng cho cá, làm thay đổi nhiệt độ, gây ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và sinh sống của loài cá.

Thủy sản biển đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với sản lượng khoảng 500 nghìn đến 726 nghìn tấn/năm. Theo ước tính, mỗi năm khoảng 100 triệu tấn phù sa kèm theo 16 nghìn tấn dinh dưỡng được đưa vào vùng nước ven biển ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long, nguyên Trưởng nhóm Tư vấn Quốc gia về đánh giá môi trường chiến lược hệ thống đập dòng chính hạ nguồn Mê Kông, hệ thống đập sẽ làm đảo lộn “tín hiệu dòng sông”. Việc các đập thủy điện lưu giữ phù sa sẽ có ảnh hưởng lớn đến sản lượng thủy sản biển và ngành đánh bắt, thương mại thủy sản của Việt Nam. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến ngành thủy sản nuôi ở Việt Nam vì mất nguồn protein từ các tạp biển làm thức ăn cho cá nuôi.

Vẫn biết thủy điện lâu nay được coi là một nguồn “năng lượng xanh”, vì có thể tái tạo và không phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất. Thêm nữa, các đập nước trên lý thuyết còn giúp kiểm soát dòng chảy, điều chỉnh lưu lượng nước, phòng chống lũ lụt hay hạn hán tại hạ nguồn; giúp phát triển nông nghiệp. Nhưng việc phát triển thủy điện trên các dòng sông lớn như Mê Kông sẽ là "lợi bất cập hại", nên cần có sự tham gia nghiên cứu kỹ lưỡng của tất cả các quốc gia từ thượng nguồn đến hạ lưu. Chuyên gia quản lý lưu vực sông Nguyễn Nhân Quảng cho rằng, các tác động liên quan đến một số loài cá di cư cũng như tác động về dòng chảy, phù sa cần được làm rõ hơn với các nghiên cứu khoa học với kết quả thấu đáo. Có như vậy mới tránh được “tiền lệ xấu” cho các dự án có thể có sau này và cam kết của các quốc gia Lào, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam khi tham gia Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông mới được thể hiện một cách thuyết phục.

Phương Thu
.
.
.