Đảm bảo công bằng khi xóa nợ, khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt

Thứ Hai, 15/08/2016, 09:40
Tại Dự thảo Nghị quyết về một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp (DN), Bộ Tài chính đã đề xuất một số nội dung cụ thể liên quan đến việc xóa nợ, khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với người nộp thuế đã giải thể, phá sản hoặc bỏ kinh doanh.


Đề xuất xóa nợ 7.963 tỷ đồng

Tổng cục Thuế cho biết: sẽ xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với DN, tổ chức thực tế đã giải thể, phá sản hoặc bỏ kinh doanh trước ngày 1-1-2014 và khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với DN, tổ chức thực tế đã giải thể, phá sản hoặc bỏ kinh doanh trong giai đoạn từ 1-1-2014 đến 31-12-2015. 

Xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của hộ, cá nhân kinh doanh đã bỏ kinh doanh trước ngày 1-1-2014 và khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của hộ, cá nhân kinh doanh đã bỏ kinh doanh trong giai đoạn từ ngày 1-1-2014 đến ngày 31-12-2015.

Khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Theo đề xuất của Bộ Tài chính thì việc xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho người nộp thuế là 7.963 tỷ đồng, chứ không phải là 15.000 tỷ đồng như một số thông tin phản ánh trên báo chí trong thời gian vừa qua.

Số tiền khoanh nợ cho những trường hợp thực tế đã giải thể, phá sản, bỏ kinh doanh theo đề xuất là 6.731 tỷ đồng, việc khoanh nợ là tạm thời không tính tiền chậm nộp để theo dõi do các đối tượng này gặp khó khăn chứ không phải là xóa nợ. Đối với các trường hợp chây ỳ, cố tình chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước sẽ bị xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật.

Vì sao phải xóa nợ thuế?

Lý giải về thông tin về xóa nợ thuế, Tổng cục Thuế cho biết, việc đề xuất, lựa chọn các đối tượng để xóa nợ, khoanh nợ thuế tháo gỡ khó khăn cho DN, cá nhân kinh doanh được căn cứ trên cơ sở tổng kết đánh giá tình hình thực hiện xử lý xóa nợ thuế trong thời gian qua và tình hình thực tiễn, cơ quan thuế đã rà soát ký lưỡng các đối tượng để đề xuất, trên cơ sở Luật Quản lý thuế năm 2007 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực từ 1-7-2013.

Vậy, việc xóa nợ, khoanh nợ thuế dựa trên nguyên tắc nào, có đảm bảo công bằng không? Liệu có hay không việc xóa nợ, khoanh nợ thuế chỉ hướng đến DN Nhà nước, không tác động gì cho DN, không đảm bảo công bằng?

Trả lời câu hỏi này, Tổng cục Thuế khẳng định, việc đề xuất xử lý xóa nợ, khoanh nợ cho các DN để tháo gỡ khó khăn cho DN, hộ cá nhân kinh doanh, làm giảm nợ của nền kinh tế, giúp nền kinh tế trong sạch hơn, minh bạch hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc xóa nợ, khoanh nợ đã đảm bảo theo các nguyên tắc. Thứ nhất, xóa nợ, khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm nguyên tắc không phân biệt đối xử phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia.

Theo đó đối tượng xóa nợ, khoanh nợ gồm tất cả các DN thuộc mọi thành phần kinh tế DN Nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN ngoài quốc doanh, hộ cá nhân kinh doanh, chứ không chỉ mỗi DN Nhà nước. Thứ 2, xóa nợ tiền chậm nộp đối với trường hợp do nguyên nhân bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan không có tiền để nộp thuế. Đối với những trường hợp này, để đảm bảo công bằng, điều kiện để được xóa thì người nộp thuế vẫn phải nộp đủ tiền thuế.

Đối tượng ở đây là các DN cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán bằng vốn NSNN hoặc có nguồn từ NSNN nhưng chưa được Nhà nước thanh toán kịp thời dẫn đến bị tính tiền chậm nộp. Thứ 3, xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với những trường hợp không còn khả năng thu do tổ chức kinh doanh thực tế đã giải thể, phá sản, cá nhân kinh doanh thực tế đã chết, mất tích, không còn đối tượng để thu.

Các DN thực tế đã giải thể, phá sản nhưng không làm đầy đủ trình tự, thủ tục giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật, kinh doanh thua lỗ, không còn tài sản, mất khả năng thanh toán, đã không còn hoạt động sản xuất, kinh doanh, cơ quan thuế đã thực hiện các biện pháp cưỡng chế, chính quyền địa phương cũng không xác minh được tài sản của người nộp thuế để thực hiện thu nợ.

Với người nộp thuế bỏ kinh doanh, cơ quan thuế đã phối hợp với chính quyền địa phương các cơ quan chức năng để xác minh thông tin, tìm đối tượng để thu và đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong thời gian dài, nhưng không đạt kết quả, đã thông báo cơ sở kinh doanh không còn hoạt động tại địa chỉ đăng ký kinh doanh, có xác nhận giữa cơ quan Thuế và cơ quan Công an hoặc giữa cơ quan Thuế và chính quyền địa phương về việc người nộp thuế đã bỏ địa chỉ đăng ký kinh doanh, cơ quan Thuế đã thực hiện các biện pháp quản lý để thu tiền thuế nợ nhưng không thu được.

Đối với nhiều hộ kinh doanh không có đăng ký kinh doanh thì UBND cấp xã, phường quản lý trực tiếp những hộ này. Hộ, cá nhân kinh doanh bỏ kinh doanh đều do kinh doanh thua lỗ, chỉ còn tài sản đủ để đáp ứng nhu cầu cơ bản trong sinh hoạt thông thường.

Lệ Thúy
.
.
.