Giai thoại gánh hát bội bị chôn sống cạnh Lăng Ông Thoại Ngọc Hầu

Thứ Hai, 26/08/2013, 20:30

Từ bao đời nay, cư dân sinh sống quanh chân núi Sam (tp Châu Đốc, tỉnh An Giang) tồn tại một giai thoại rợn người. Giai thoại đó cho rằng, khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, người ta đã chôn sống bầu đoàn thê tử một gánh hát bội để hát hầu ông ở thế giới bên kia. Rùng rợn hơn là trong số những người chôn sống có một cặp diễn viên trẻ em song sinh. Hiện nay, mộ của những diễn viên hát bội vẫn còn hiện hữu bên cạnh mộ phần Thoại Ngọc hầu và gia quyến.

Những dòng giai thoại ấy tồn tại và lan truyền đến tận ngày nay. Hầu như tất cả những cư dân địa phương sinh sống lâu năm tại vùng đất này đều thuộc lòng những giai thoại kỳ bí ấy. Tuy nhiên, những người làm công tác nghiên cứu, bảo tồn di tích đều bỏ ngoài tai. Họ cho rằng, những giai thoại đó không có cơ sở chứng minh.

Thoại Ngọc Hầu là một công thần triều Nguyễn đã có công khai hoang mở rộng bờ cõi phương Nam, trấn giữ cương vực lãnh thổ tổ quốc và bảo hộ nước Cao Miên (Campuchia) tránh sự xâm lược của Xiêm La (Thái Lan). Ông là người song toàn tài, đức. Giai thoại trên đã ít nhiều ảnh hưởng đến uy danh của ông.

Vài nét về Lăng Ông Thoại Ngọc Hầu

Cách nay 20 năm, khi hơi hướm đô thị còn cách xa 8 cây số, Lăng Ông nằm giữa quang cảnh u tịch, thâm trầm, khiến ai đi qua cũng ngầm cung kính oai linh nghiêm thần. 

Đó là một công trình quần thể kiến trúc độc đáo mang nét cổ kính, uy nghi đặc trưng của cung đình Huế được chính Thoại Ngọc Hầu chọn địa điểm và chỉ huy thiết kế, xây dựng vào năm 1822 (năm Minh Mạng thứ ba). Đến năm 1829, ông mới qua đời. Dân cư địa phương gọi kính cẩn là "Lăng Ông" hoặc "Sơn Lăng".

Khi chưa được tôn tạo, làm mới, quần thể Lăng Ông được đánh giá là một công trình kiến trúc đẹp, hài hòa, chứng tỏ ngoài khả năng cầm quân, cai trị, Thoại Ngọc Hầu còn có nhãn quan nghệ thuật. Trước khi xây lăng, ông đã cho thợ về vùng Biên Hòa tinh tuyển đá ong và đá xanh tốt vận chuyển bằng tàu đem về núi Sam xây thành 9 bậc thang tạo thành lối lên lăng.

Toàn bộ quần thể lăng được bao bọc bởi 1 vách tường dày xây bằng hỗn hợp vôi, ô dước và một số chất liệu bí ẩn (được cho là mật đường cây mía). Trước sân lăng là cổng song quan hình bán nguyệt có mái ngói cong. Cạnh cổng có 2 tiểu đình. Một tiểu đình che giữ bản sao tấm bia Thoại Sơn và 2 tượng nai, 2 tượng hổ và 1 khẩu súng thần công. Tiểu đình còn lại có tượng 2 người lính hầu dắt ngựa.

Bên trong cổng lăng, chính giữa nền sân rộng, bằng phẳng là phần mộ Thoại Ngọc Hầu. Mộ phu nhân chính thất Châu Thị Tế nằm bên phải. Ngôi mộ của phu nhân thứ thất Trương Thị Miệt nằm bên trái hơi thấp hơn mộ chính thất.

Đầu mộ là bức bình phong. Chân mộ là bia chí. Ngay tại vị trí  bia chí là 5 tấm bia bằng đá sa thạch gắn vào tường thành. Ở giữa là tấm bia Vĩnh Tế Sơn dựng lên từ năm 1828 tức là sau 4 năm đào xong kênh Vĩnh Tế. Trên bia Vĩnh Tế Sơn có khắc bài ký 750 chữ nôm. Tấm bia này được xem là cột mốc chủ quyền quốc gia. Ngày nay mặt đá bị bào mòn, chữ không còn hiện rõ. Theo bậc thang lên cao, ra khỏi vuông lăng là đền thờ nằm bên những bóng cây cao râm mát. Không rõ đền được xây dựng vào năm nào, nhưng cũng phải sau khi Thoại Ngọc Hầu mất.

Bên phải phần mộ Thoại Ngọc Hầu, cùng trong nội lăng, có 14 ngôi mộ được chôn thành một nhóm kề cận bên nhau, phần nhiều hình bầu dục, vật liệu cũng bằng vôi, ô dước.

Hai bên phải, trái khu vực chính còn có hai khoảng đất rộng được gọi là "nghĩa trũng", có tất cả 30 ngôi mộ không bia chí mang nhiều dáng dấp khác nhau. Có mộ đắp hình voi phục, có mộ đắp hình nón, có mộ đắp hình bầu dục. Những ngôi mộ này được cho là của những người chết trong thời gian tham gia đào kênh Vĩnh Tế nằm rải rác khắp nơi được Thoại Ngọc Hầu quy tập lấy cốt đem về cải táng trước khi dựng bia Vĩnh Tế Sơn. Lẫn lộn trong trong đó có một nhóm mộ được dân gian truyền tụng là mộ những đào kép hát bội theo hầu Thoại Ngọc Hầu gồm 1 mộ hình trái đào, 1 mộ hình nón nằm thành cặp song song nhau.

Phía sau cặp mộ đó có 1 mộ hình nón nằm cạnh 1 ngôi mộ có hình 2 mô nhỏ nằm chung trông như đôi bồng đảo thiếu nữ. Một số mộ hình bầu dục nằm rải rác phía sau. Người đời sau nhiều lần tu sửa làm mới khu lăng mộ đã biến những ngôi mộ hình nón thành hình bầu dục. Tất cả đều không có bia chí. Đó là những ngôi mộ được cho là của gánh hát bội "Quảng Nam" bị chôn theo Thoại Ngọc Hầu.

Mặt tiền Lăng Ông Thoại Ngọc Hầu.

Hầu hết những bô lão trường thọ tại địa phương đều xác nhận rằng, từ thuở còn bé họ đều nghe những người lớn tuổi truyền tai nhau rằng: Trong thời gian trấn nhậm vùng biên ải, Thoại Ngọc Hầu đã về tận cái nôi hát bội Quảng Nam tuyển những đào kép giỏi rước về vùng Thoại Sơn nuôi dưỡng để hát phục vụ giải trí cho ông, gia quyến và những binh lính, dân phu đào kênh Vĩnh Tế.

Người dân gọi tên gánh hát bội này là gánh "Quảng Nam". Đó là gánh hát bội đầu tiên đặt chân đến vùng đất phương Nam. Những vị bô lão cho rằng, cái thuở hoang sơ văn hóa nơi vùng đất ấy, gánh hát bội là một tài sản quý báu phải được cư dân gìn giữ lưu truyền. Thế nhưng hầu như gánh hát bội đã mất tích giữa pho lịch sử khai hoang vùng đất mới.

Ông Nguyễn Hữu Sàng (Bảy Sàng), 80 tuổi, là một cán bộ hoạt động cách mạng từ thời chống Pháp đến thời chống Mỹ. Trong giai đoạn chống Mỹ, ông Bảy Sàng ẩn trong vai thành viên ban tế tự Lăng Ông để hoạt động cách mạng. Hiện nay, ông được xem là pho sử liệu sống của vùng núi Sam.

Ông Bảy Sàng cho biết: "Có nhiều dòng giai thoại liên quan đến những ngôi mộ gánh hát bội chứ không phải một. Một dòng cho rằng, sau khi Thoại Ngọc Hầu chết, những người an táng đã chôn sống gánh hát như chôn của cải tùy táng. Một dòng khác thì cho rằng, trong lễ tang, trước linh cữu ông, toàn bộ gánh hát đã uống thuốc độc rồi hát diễn 1 tuồng cuối cùng. Họ ngấm thuốc và chết ngay khi đang diễn. Vì quá đau thương, những đào kép gánh hát này đã tình nguyện chết để sang thế giới bên kia tiếp tục phục vụ ông.

Lại có giai thoại khác cho rằng, trong lễ tang Thoại Ngọc Hầu họ đang hát đã bị vong ông vặn cổ chết để mang sang thế giới bên kia. Cặp mộ hình trái đào và hình nón là của cặp đào kép chính. Ngôi mộ có hình dáng đôi bồng đảo thiếu nữ là 1 cặp "đào con" (diễn viên thiếu nhi). Những ngôi mộ hình nón là của kép hát. Những ngôi mộ hình bầu dục là nhóm công nhân hậu đài".

Thế nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu về lăng Thoại Ngọc Hầu đều phủ nhận điều ấy. Các tài liệu nghiên cứu cho rằng, đó chỉ là mộ của những dân, binh chết do sơn lam chướng khí trong quá trình cùng Thoại Ngọc Hầu khẩn hoang. Sau khi hoàn tất việc tự xây lăng mộ cho mình, vì nhớ công lao của họ, ông đã cho người đi quy tập hài cốt về chôn cất.

Tuy nhiên, lần theo điển cố, có một số chi tiết khiến một số người chưa tâm phục, khẩu phục các tài liệu nghiên cứu ấy.

Quần thể 30 ngôi mộ không bia chí.

Lần theo điển cố

Sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức mô tả di dân miền Nam thuở khẩn hoang ham mê hát bội đến mức trở thành hủ tục, lãng phí. Những vị quan lớn như Lê Văn Duyệt, Thoại Ngọc Hầu đều "sắm" một gánh hát bội riêng. Trong miếu thờ Lê Văn Duyệt ở Bà Chiểu (Gia Định) cũng dành riêng một vị trí thờ kép Hứa Văn từng được Tả Quân và quần chúng yêu thích.

Căn cứ vào lệ xưa của các gánh hát bội, khi diễn viên qua đời, người ta thường đắp mộ mang hình dáng đặc biệt khác với người thường. Với người thường, nấm mộ mang hình voi phục, bia chí có hai cánh tiểu thành bao bọc. Với đào hát (diễn viên nữ), người ta đắp mộ hình quả đào, chỉ có bia chí, không có tiểu thành. Với kép hát (diễn viên nam), người ta đắp mộ tròn hình nón, không tiểu thành. Điều này phù hợp với những nấm mộ hiện hữu tại lăng.

Nhà nghiên cứu Huỳnh Ái Tông, sinh năm 1941 (đang định cư ở nước ngoài) đã từng viết nhiều tác phẩm khảo cứu giá trị từ trước năm 1975, viết một bài ký có tựa đề "Thăm lại Lăng Thoại Ngọc Hầu". Bài ký này có đoạn: "Trước năm 1960, tôi có đi với chú tôi, thầy Lê Quang Điện và một số thầy giáo ở Vĩnh Long, đưa học trò đi tham quan Lăng Thoại Ngọc Hầu. Các thầy trao đổi với nhau, tôi được biết đó là một đoàn hát bội được Thoại Ngọc Hầu nuôi trong gia đình, sau khi ông qua đời, họ đã dùng độc dược để quyên sinh, một là để trả ơn của ngài, hai là để theo ngài về bên kia thế giới, tiếp tục phục vụ cho ngài. Hai ngôi mộ nhỏ ấy là hai đứa bé, con của đào kép hát.

Có tài liệu cho rằng, đó là những ngôi mộ, ngài đã cải táng những người đã theo ngài đào kinh Thoại Hà, kinh Vĩnh Tế, vì họ đã xả thân cho công cuộc khai phá miền Nam. Có người cho rằng đó là những ngôi mộ con cháu của ngài. Cho rằng, đó là mồ mả của con cháu ngài chắc là không đúng, vì theo tài liệu, sau khi mất ông bị Võ Du ở Tào Hình Bộ tố cáo ông đã tham nhũng của dân. Vua Minh Mạng giao cho Hình bộ tra cứu, sau khi nghị án triều đình đã giáng ông xuống hàng ngũ phẩm, con bị lột ấm, điền sản bị tịch thu. Con ông, Nguyễn Văn Tâm lưu lạc không rõ tông tích, còn Nguyễn Văn Minh con bà thứ sống đời dân giả nghèo khó".

Theo đó thì, giai đoạn sau khi ông chết cho đến năm 1916 Khải Định lên ngôi vua, con cháu Thoại Ngọc Hầu thuộc dạng "ẩn tích đào tầm nã" thì không thể được an táng trong khu lăng.

Năm 1924, Vua Khải Định minh định lại lời cáo gian của Võ Du. Thoại Ngọc Hầu được minh oan và được Khải Định phong danh Đoan Tức Dục Bảo Trung Hưng Công Thần, Võ Du bị tước quyền, bị đày đi Cam Lộ. Căn cứ vào đó cho thấy những ngôi mộ không bia không thể là của con cháu ông Thoại Ngọc Hầu.

Ông Huỳnh Ái Tông phân tích: Nếu cho đó là những ngôi mộ của người có công trong các công trình đào kinh Thoại Hà, kinh Vĩnh Tế, chắc chắn Thoại Ngọc hầu phải dựng cho họ một tấm bia ký, ghi lại những công trạng họ đã làm, khổ nhọc họ đã trải qua để đền ơn. Vả lại, trẻ con thì không thể  có mặt ở các công trình thi công giữa rừng sâu nước độc. Suy luận 2 đứa trẻ đó là con cái của các đào kép hát hoặc là "đào con" thì hợp lý hơn. Ông Huỳnh Ái Tông đưa ra giả thuyết: "Sau khi Thoại Ngọc Hầu mất, vào tuần Bách nhật của ngài, họ hát một vở đặc biệt để tế ngài. Sau vở hát, họ cùng nhau quyên sinh".

Theo sử liệu, Thoại Ngọc Hầu là người trọng nghĩa. Khi đã công thành danh toại, làm quan lớn triều đình, nhiều lần ông trở về nơi chôn nhau cắt rốn ở Quảng Nam giúp đỡ, chăm lo đời sống người dân như mở chợ Hà Thân, lập chùa An Phước, dựng đình An Hải, xây nhà thờ Tiền hiền... Ông còn lấy tên làng quê An Hải của ông đặt tên cho các đội quân ông lập để canh giữ biên cương Tây Nam. Khi còn sống, những cư dân quanh vùng núi Sam đã yêu mến, xem ông là thần. Có thể vì quá yêu mến ông, cộng với thuyết hậu kiếp duy linh, những đào kép trong gánh hát bội đã tuẫn tiết để theo hầu ông. Điều này, các nhà khoa học lịch sử cần minh định một cách nghiêm túc để trả ơn tiền nhân có công mở cõi phương Nam

Nông Huyền Sơn
.
.
.