Bí ẩn hạt nhân vùi lấp trong băng tuyết Himalaya

Thứ Ba, 30/12/2025, 16:41

Trên một trong những đỉnh núi cao và hiểm trở nhất dãy Himalaya, một thiết bị chứa nguyên liệu hạt nhân plutonium từng được triển khai trong một chiến dịch tuyệt mật của CIA để thám thính quá trình phát triển vũ khí bên kia biên giới. Nhưng khi một cơn bão tuyết ập tới, chiến dịch đổ bể và cỗ máy hạt nhân có sức mạnh tương đương 1/3 quả bom Mỹ ném xuống Nagasaki đã biến mất bí ẩn…

Cuộc thoái lui bất đắc dĩ khỏi Trại số 4

Chinh phục dãy Himalaya hùng vĩ chưa bao giờ dễ dàng với cả những vận động viên leo núi chuyên nghiệp nhất. Trên những sống núi sắc như răng cưa, lạnh buốt, gió gào như tiếng rít kim loại, quất thẳng vào mặt, khiến hơi thở hóa thành những mảnh băng li ti. Mỗi bước chân là một cuộc mặc cả: hoặc tiến lên, hoặc trượt xuống vực sâu, bỏ mạng.

Trong thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh cách đây 60 năm, năm 1965, Mỹ đã cử tới Ấn Độ một đoàn leo núi đặc biệt nhưng không đơn thuần chỉ để đặt chân lên các đỉnh núi ở Himalaya, mà để thực hiện một nhiệm vụ tuyệt mật. Họ phối hợp với tình báo Ấn Độ và những người Sherpa địa phương (chuyên khuân vác đồ đạc hỗ trợ đoàn leo núi) mang lên núi những ba lô phồng cứng, nặng trĩu thiết bị ăng-ten, dây cáp, hệ thống thu phát và một "máy phát điện" được gọi là SNAP-19C.

Bí ẩn hạt nhân vùi lấp trong băng tuyết Himalaya -0
Đỉnh Nanda Devi, nơi thiết bị thất lạc. Ảnh: New York Times.

Ngoài vài thành viên chủ chốt, hầu hết đoàn leo núi không biết rõ họ đeo trên lưng thứ gì. Theo New York Times, những thiết bị đó là thành phần để xây dựng một cụm ăng-ten trinh sát hạt nhân tối tân, có mục tiêu trinh sát Trung Quốc, bởi Mỹ phát hiện Trung Quốc đã thử nổ thành công vũ khí hạt nhân năm 1964, nhưng không có thông tin đáng kể về chương trình hạt nhân, tên lửa của Bắc Kinh. CIA muốn đặt một hệ thống trinh sát ở Himalaya, chĩa ăng-ten về bên kia biên giới để "móc" tín hiệu vô tuyến từ những vụ thử tên lửa, những mẩu dữ liệu có thể tiết lộ tốc độ, độ cao, quỹ đạo, và năng lực kỹ thuật. Đích đến của chiến dịch là Nanda Devi, đỉnh núi cao thứ hai trên Himalaya thuộc vùng Uttarakhand của Ấn Độ.

Ý tưởng về việc đưa thiết bị trinh sát lên Himalaya khởi phát từ một bữa tiệc năm 1964. Tham mưu trưởng Không quân Mỹ Curtis LeMay lúc đó gặp nhiếp ảnh gia Barry Bishop, người từng chinh phục đỉnh Everest, trong lúc uống cocktail và được Bishop kể về việc có thể nhìn thấy khung cảnh tuyệt đẹp, bao quát hàng trăm dặm vùng Tây Tạng và nội địa Trung Quốc từ "nóc nhà Trái đất".

Không lâu sau, CIA mời ông Bishop lên làm việc và đưa ra kế hoạch táo bạo: Bishop sẽ dẫn đầu một nhóm nhà leo núi Mỹ leo lên một đỉnh núi cao của dãy Himalaya và thiết lập cụm thiết bị trinh sát. Bishop là lựa chọn không thể hoàn hảo hơn, bởi ông là một cựu chiến binh, một người leo núi cừ khôi và nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, nên sự xuất hiện của ông cùng hàng tá ba lô thiết bị sẽ không gây nghi ngờ. Bishop đồng ý rồi được CIA giao nhiệm vụ lựa chọn thêm các trợ thủ đủ tin cậy để hỗ trợ, một trong số đó là Jim McCarthy, một luật sư Mỹ, một nhà leo núi trẻ sẵn sàng cống hiến vì "an ninh quốc gia".

Chọn được người, Mỹ bắt tay sản xuất thiết bị. Thập niên 1960, Mỹ đã sở hữu công nghệ thu tín hiệu vô tuyến từ các vụ thử tên lửa bằng ăng-ten. Rào cản còn lại lúc này là cung cấp năng lượng để ăng-ten hoạt động. Tài liệu của New York Times cho thấy, thời bấy giờ, NASA đã chế ra máy phát điện chạy năng lượng hạt nhân cỡ nhỏ để duy trì hoạt động của các thiết bị vũ trụ hoặc máy móc ở những khu vực hẻo lánh. Cuối cùng, CIA ứng dụng công nghệ đó tạo ra SNAP-19C, nặng 22,5kg, to hơn quả bóng đá một chút, được trang bị 7 viên nang nhiên liệu plutonium Pu-239 và Pu-238, đủ sức phát điện nhiều năm liền ở những nơi ánh sáng mặt trời không thể vươn tới.

Bí ẩn hạt nhân vùi lấp trong băng tuyết Himalaya -0
Thiết bị tương tự SNAP-19C được lắp đặt ở Himalaya. Ảnh: New York Times.

Đồng thời với nỗ lực tuyển mộ và chế tạo thiết bị, Mỹ tìm tới Ấn Độ nhờ cậy giúp đỡ. Năm 1962, Ấn Độ và Trung Quốc đã có một cuộc đụng độ dữ dội dọc biên giới. Theo New York Times, New Delhi năm 1965 đồng ý hỗ trợ. "Chỉ hai, ba người trong chính phủ biết về chiến dịch này", RK Yadav, một cựu sĩ quan tình báo Ấn Độ, nói với New York Times. Cơ quan tình báo Ấn Độ lựa chọn Đại úy Mohan Singh Kohli, sĩ quan hải quân có kinh nghiệm leo núi từ 7 tuổi, dẫn đầu chiến dịch. Đầu năm 1965, Đại úy Kohli đang rất nổi tiếng vì đưa thành công 9 người Ấn Độ lên đỉnh Everest.

Hai bên đã bàn bạc về chiến dịch khá kĩ, nhưng thường bất đồng. CIA ban đầu muốn đặt cụm thiết bị trên đỉnh cao thứ ba của dãy Himalaya là Kanchenjunga, còn người Ấn phản đối vì nó quá khó leo. "Tôi nhìn vào bản đồ Kanchenjunga và nói, 'Các người điên rồi à?'", Đại úy Kohli hồi tưởng. Khi đề cập đến Nanda Devi, Đại úy Kohli tiếp tục phản đối. "Nếu không phải là bất khả thi, thì cũng vô cùng khó khăn". Giữa năm 1965, có thông tin Trung Quốc đạt tiến bộ mới. Mỹ kiên quyết đẩy nhanh tốc độ và đưa người, thiết bị tới Ấn Độ giữa tháng 9/1965, cận kề mùa bão tuyết. 

Và toan tính của con người đã không thắng được sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Từ lúc được trực thăng đưa tới chân núi Nanda Devi ở độ cao 4.600m, đoàn leo núi bị sốc độ cao do không có nhiều thời gian làm quen. Theo đúng kế hoạch, họ vẫn cố thiết lập được 4 trại dừng chân dọc sườn núi trong những ngày đầu tháng 10/1965. "Ngày 4/10: Gió lớn, lều bị cuốn. Ngày 5/10: Thiếu thức ăn. Ngày 11/10: Tuyết rơi cả ngày… Ngày 15/10: Tuyết rơi liên tục. Đang bước vào giai đoạn khó khăn", hồi ký của nhiếp ảnh gia Bishop viết.

Đến ngày 16/10/1965, nhóm chịu trách nhiệm lắp SNAP-19C, khi đó đang ở Trại số 4 cách đỉnh Nanda Devi 3 giờ leo, quyết định thực hiện nốt hành trình đến vị trí định sẵn, nhưng thời tiết bất ngờ xấu đi. Gió rít, mây đen, một trận bão tuyết ập tới và đỉnh Nanda Devi bỗng chốc biến mất trong một màn tuyết trắng xóa. Từ trại bên dưới, Đại úy Kohli lo lắng cho tính mạng của đồng đội. "Trại số 4, đây là căn cứ tiền phương. Các anh nghe thấy không?", Kohli hét vào bộ đàm. Không có phản hồi nào. "Trại số 4, các bạn có ở đó không?", ông gọi lại. Chiếc radio phát ra tiếng rè rè yếu ớt: "Vâng… đây là… Trại số 4". "Hãy quay xuống ngay. Đừng lãng phí thêm phút nào", Kohli ra lệnh khi gió tuyết mạnh hơn. "Vâng… vâng… thưa chỉ huy", bên kia bộ đàm nói.

Trong tình thế cấp bách, vị đội trưởng quyết định yêu cầu các đồng đội bỏ lại SNAP-19C vì lo sợ nó cản chân họ sơ tán. "Nhưng đừng làm rơi nó. Hãy bảo vệ thiết bị cẩn thận", ông nói. Nhận lệnh, nhóm leo núi cất giấu SNAP-19C của CIA trên một gờ băng. Bên trong đó là khối plutonium sức mạnh tương đương 1/3 khối plutonium được sử dụng trong quả bom Fatman Mỹ thả xuống Nagasaki.

Bí ẩn hạt nhân vùi lấp trong băng tuyết Himalaya -0
Đại úy Kohli (hàng đứng) và hai nhà leo núi Wangyal và McCarthy (hàng dưới) trước khi bắt đầu nhiệm vụ. Ảnh: New York Times.

SNAP-19C đang ở đâu?

Vì tính chất nhạy cảm của chiến dịch, Mỹ lựa chọn để mọi hoạt động liên lạc trên radio do người Ấn Độ đảm nhiệm để tránh nguy cơ bị "đối thủ" phát hiện. Nhưng khi nghe thấy Đại úy Kohli ra lệnh cho cấp dưới bỏ lại trang thiết bị tại Trại số 4 để leo xuống căn cứ tiền phương, ông McCarthy đã rất tức giận. "Phải đưa cái máy phát điện đó xuống ngay. Anh đang mắc một sai lầm lớn", ông McCarthy hồi tưởng.

Theo ông McCarthy, những người Sherpa hoàn toàn đủ sức đưa SNAP-19C xuống núi. Nhưng trong hồi ký của một thành viên đoàn Ấn Độ có tên Sonam Wangyal, quyết định của Kohli đã cứu mạng họ, bởi điều kiện thời tiết lúc đó quá khắc nghiệt và việc di chuyển giữa căn cứ tiền phương và Trại số 4 "mất đến 15 giờ đồng hồ" thay vì 3 giờ như thông thường. "Một cái kim tiêm dự phòng cũng không mang theo được", Wangyal nói.

Trong lời kể sau này của cả ông McCarthy và Đại úy Kohli, có một sự thật trớ trêu là những người Sherpa trong đoàn rất "thích" thiết bị SNAP-19C, nên việc bỏ lại nó trên núi có lẽ là lựa chọn bất đắc dĩ. Các thanh nhiên liệu Pu-238 bên trong có chu kì bán rã khoảng 88 năm và tỏa nhiệt lớn ra xung quanh, giúp họ ấm áp hơn. "Những người Sherpa yêu thích nó. Họ đặt nó trong lều, nằm cuộn tròn bên cạnh", ông McCarthy kể. Trong khi đó, Đại úy Kohli hồi tưởng: "Những người Sherpa gọi thiết bị đó là Guru Rinpoche (tên một vị thánh trong Phật giáo Tây Tạng) vì nó rất ấm… Chúng tôi hoàn toàn không biết gì về mối nguy hiểm ở thời điểm đó".

Theo báo cáo của các thành viên đoàn, sau khi nhận lệnh, các thành viên Ấn Độ đã buộc chặt các thùng thiết bị vào cọc sắt bằng dây thừng nilon bên trong một hang băng nhỏ. Các thành viên đoàn rút lui an toàn. Cơn bão tuyết ập đến đồng nghĩa mùa leo núi năm 1965 đã kết thúc và nhiệm vụ tìm kiếm sẽ phải chuyển sang mùa Xuân sang năm. Tháng 5/1966, Kohli và một nhóm thành viên CIA đã quay lại Trại số 4 để thu hồi thiết bị, nhưng khi tới nơi, họ kinh ngạc phát hiện toàn bộ mỏm băng, nơi các thiết bị được cất giấu, đã biến mất. Có lẽ một trận tuyết lở mùa Đông đã xé toạc nó ra, chỉ còn sót lại vài mảnh dây thép vụn.

"Chuyện này sẽ rất nghiêm trọng. Đó là những viên nang chứa Plutonium", thành viên CIA thừa nhận với Kohli. Họ không thể tìm thấy thiết bị và buộc phải xuống núi tay không. Đại úy Kohli đã trở lại khu vực này thêm hai lần nữa vào các năm 1967 và 1968, sử dụng máy đếm alpha để đo bức xạ, kính viễn vọng để quét tuyết, cảm biến hồng ngoại để phát hiện nhiệt và máy dò mìn để tìm kim loại, nhưng đã không thể xác định vị trí chính xác của SNAP-19C. "Thứ chết tiệt đó rất nóng", ông McCarthy nói và giải thích rằng nó sẽ làm tan chảy lớp băng xung quanh, sau đó "tự chôn mình ở phần sâu nhất của sông băng".

Bí ẩn hạt nhân vùi lấp trong băng tuyết Himalaya -0
Cụm thiết bị trinh sát được thử nghiệm ở Mỹ năm 1965. Ảnh: New York Times.

Sau thất bại với chiến dịch 1965, CIA vẫn tiếp tục thúc đẩy việc thiết lập một trạm quan sát trên đỉnh dãy Himalaya. Họ đã thử các ngọn núi khác ở Ấn Độ, thấp hơn và dễ leo hơn. Theo lời Đại úy Kohli và các tài liệu từng được rò rỉ của Chính phủ Ấn Độ, một nhóm các nhà leo núi đã lắp đặt thành công cụm loạt thiết bị giám sát mới, cũng sử dụng nhiên liệu phóng xạ, trên một thềm băng bằng phẳng ở đỉnh núi thấp hơn, gần đỉnh Nanda Devi, vào mùa Xuân năm 1967. Tuy nhiên, do hoạt động chập chờn, nó bị tháo dỡ năm 1968 để gửi trả Mỹ. Bước sang thập niên 1970, các công nghệ do thám mới, bao gồm hệ thống vệ tinh, đã phát triển, và những chiếc ăng-ten trên đỉnh núi không còn cần thiết. Mỹ mới thật sự từ bỏ nỗ lực trinh sát bằng ăng-ten.

Đến nay, đã 6 thập kỉ từ sau vụ việc, nhưng Mỹ chưa từng công khai thừa nhận sự cố. Năm 1978, nhà báo người Mỹ Howard Kohn đăng tải một bài "Vụ án Nanda Devi" gây chấn động, trong đó đề cập đến vụ thất lạc SNAP-19C. Ngay sau khi bài báo xuất hiện, hai nghị sĩ đảng Dân chủ John D. Dingell của Michigan và Richard L. Ottinger của New York đã viết thư cho Tổng thống Jimmy Carter: "Nếu bài báo thực sự chính xác, chúng tôi tha thiết kêu gọi nước Mỹ thực hiện mọi biện pháp cần thiết để giải quyết tình huống nghiêm trọng và đáng xấu hổ này".

Hai nghị sĩ còn tổ chức họp báo, nêu vụ việc Mỹ phải triển khai hàng loạt tàu biển để tìm kiếm bằng được một thiết bị tương tự, SNAP-19B2 (trang bị trên vệ tinh thời tiết bị rơi xuống biển), trong nửa năm liên tục. Họ đặt câu hỏi: Tại sao người Mỹ lại rút khỏi Ấn Độ, bỏ lại thiết bị hạt nhân tương tự trên dãy Himalaya? Chưa rõ Nhà Trắng trả lời câu hỏi ra sao, nhưng quyền Ngoại trưởng Mỹ thời bấy giờ Warren Christopher đã gửi bản ghi nhớ (mới được giải mật gần đây) cho Tổng thống Carter, trong đó viết: Bài báo của ông Kohn "chính xác ở những khía cạnh quan trọng". "(Nhưng) chúng ta giữ lập trường không bình luận về những cáo buộc liên quan đến hoạt động tình báo", ông Christopher nêu.

Những mối nguy có thật

"Đó là một vụ ồn ào lớn", ông Yadav, cựu sĩ quan tình báo Ấn Độ, nhận định. Theo ông này, các nhà leo núi người Ấn Độ đã giữ lời hứa im lặng cả thập kỷ và rất ít quan chức Ấn Độ biết về SNAP-19C. Khi bài báo của Kohn phanh phui vụ việc, tin tức lan đến New Delhi, người Ấn Độ đã rất sốc. Bộ Ngoại giao Ấn Độ triệu tập Đại sứ Mỹ. Người biểu tình xuống đường, giơ cao các biểu ngữ có nội dung "CIA đầu độc nguồn nước của chúng ta". Các nhà lập pháp Ấn Độ kêu gọi điều tra, yêu cầu làm rõ thiết bị đó đang ở đâu, ai đã phê duyệt nhiệm vụ và vì sao lại phê duyệt.

Nhiều người khi nghe cụm từ "thiết bị hạt nhân thất lạc" sẽ hình dung một quả bom có thể phát nổ, nhưng SNAP-19C không phải đầu đạn hạt nhân, không có kíp nổ và cũng không thể phát nổ. Những máy phát kiểu này có cấu trúc gồm các ống nhiên liệu plutonium được bọc lớp vỏ dày. Bên trong, plutonium phân rã và tỏa nhiệt, một phần nhiệt được chuyển thành điện, phần còn lại tỏa ra môi trường. Nhưng "không nổ" không có nghĩa là vô hại.

Plutonium là chất độc cực mạnh với cơ thể người. Nếu bị hít hoặc nuốt vào, nó có thể tích tụ và gây tổn thương nội tạng, tăng nguy cơ ung thư ở gan, phổi, xương. Và nếu lớp vỏ bị phá hủy bởi va đập, ăn mòn sau thời gian dài, phóng xạ vẫn có thể thoát ra môi trường và ảnh hưởng tới người dân.

Bí ẩn hạt nhân vùi lấp trong băng tuyết Himalaya -0
Sông Hằng là nguồn nuôi sống hàng trăm triệu người. Ảnh: New York Times.

Sau khi có thông tin rò rỉ, nhiều người Ấn đặc biệt lo ngại nguy cơ các thiết bị này gây ô nhiễm sông Hằng. Các sông băng trên Nanda Devi, được hình thành từ hàng triệu năm trước, là nguồn cung cấp nước đáng kể cho các nhánh sông Hằng trải dài trên khu vực hơn 2.500km và nuôi dưỡng hàng trăm triệu người. Tuy nhiên, vụ bê bối đã được kiểm soát.

Thủ tướng Ấn Độ Morarji Desai khi đó  đã đứng trước Quốc hội và trấn an toàn dân rằng "không có lý do gì để lo ngại". Ông cũng cho biết, "để chắc chắn gấp 3 lần", Ấn Độ đã thành lập một ủy ban gồm các chuyên gia để xác định mọi rủi ro với "dòng sông Hằng linh thiêng".

Năm 1979, giới chức Ấn Độ công bố báo cáo, khẳng định các mẫu nước không thấy nhiễm bẩn; và họ kết luận ngay cả tình huống xấu nhất, nguy cơ với nguồn nước sông Hằng là "nhỏ không đáng kể". Sau này, các nhà khoa học cũng cơ bản đồng ý với nhận định rằng khả năng sông Hằng bị nhiễm bẩn hạt nhân vì một thiết bị hạt nhân có kích thước bằng quả bóng là rất thấp, nếu xét đến lượng nước khổng lồ chảy trên dòng sông này mỗi ngày.

Cuối cùng, nhờ đánh giá của chuyên gia, các nỗ lực minh bạch của Ấn Độ và nỗ lực ngoại giao của Mỹ, vụ bê bối tạm lắng xuống. Không rõ hai bên có triển khai các chiến dịch tìm kiếm SNAP-19C ra sao trong những năm qua. Vì nhiều lí do khác nhau, nhà chức trách Ấn Độ đã đình chỉ hoạt động leo núi đối với đỉnh Nanda Devi từ lâu.

Những tranh cãi xung quanh SNAP-19C đã bùng lên trở lại từ năm 2021, khi một mảng đá khổng lồ bất ngờ gãy khỏi sườn núi ở Nanda Devi, kéo theo hàng triệu tấn băng, bùn và gạch đá, tạo ra một trận lũ quét kinh hoàng quét qua khe núi Rishiganga. Hơn 200 người thiệt mạng, một đập thủy điện bị cuốn phăng. Với người dân địa phương, thảm họa càng khiến chuyện "thiết bị hạt nhân thất lạc" sống lại.

Có người nghi rằng nó đã "phát nổ", dù không có bằng chứng. Đại úy Kohli, trước khi qua đời hồi tháng 6/2025, từng nói đến khả năng nhiệt từ SNAP-19C có thể góp phần gây ra sự cố, nhưng không thể chứng minh nghi ngờ. Các nhà khoa học giải thích thảm kịch đó có nguyên nhân là biến đổi khí hậu và các vết nứt băng tích tụ lâu ngày.

Tuy vậy, cũng có những ý kiến khác chỉ ra những mối nguy hiểm không thể lơ là từ SNAP-19C. New York Times đánh giá, tình trạng biến đổi khí hậu và nhu cầu phát triển đang làm vùng Himalaya thay đổi nhanh, với những con đường, đập nước và công trình của con người mọc lên, kéo theo nguy cơ "gặp lại" SNAP-19C.

Một nguy cơ khác là plutonium rơi vào tay những kẻ xấu rồi bị sử dụng để chế tạo "bom bẩn", tức dùng thuốc nổ thường để gây ô nhiễm phóng xạ. Satpal Maharaj, một quan chức cấp cao của bang Uttarakhand đánh giá: "Vật liệu phóng xạ nằm ngay đó, bên trong lớp tuyết. Cần phải khai quật thiết bị này và dập tắt mọi lo ngại".

Nguyễn Viết
.
.
.