Những loại vũ khí nguy hiểm nhất thế giới
Chủ đề vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) ngày càng được nêu ra nhiều hơn trong bối cảnh những mâu thuẫn ngày càng trầm trọng trên thế giới. Vũ khí này có khả năng nổi trội và một số tính năng đặc biệt, bao gồm: Tác động gây hại đa yếu tố; Sự hiện diện của các yếu tố gây hại có tác dụng kéo dài và sự lan rộng của chúng ra ngoài mục tiêu được nhắm tới; Hiệu ứng chấn thương tâm lý kéo dài; Hậu quả nghiêm trọng về di truyền và môi trường…
Các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt chính yếu
Vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học đều có đặc tính tương tự như trên. Điều chính yếu của mỗi loại WMD là ở đạn của thiết bị tương ứng. Để vận chuyển WMD có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả bom trên không và tên lửa, cho phép mở rộng địa lý của các cuộc tấn công có thể xảy ra. Việc sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt có thể tác động đáng kể đến môi trường sống tự nhiên và dẫn đến hậu quả nghiêm trọng không chỉ đối với các bên tham chiến mà còn đối với toàn nhân loại.
Vì lý do này mà việc sử dụng WMD đang được cố gắng hạn chế. Năm 1899, theo sáng kiến của Nga, hội nghị hòa bình đầu tiên được triệu tập tại Hague. Tại đây đã thông qua một số văn bản, bao gồm tuyên bố “Về việc cấm sử dụng các loại đạn có mục đích duy nhất là phát tán khí ngạt hoặc khí độc hại” đã được đại diện của 26 quốc gia ký kết. Tuy nhiên, vào đầu Thế chiến I, các bên tham chiến đã sở hữu những vũ khí này. Mùa hè năm 1925, đại diện của 37 quốc gia đã ký Nghị định thư về việc cấm sử dụng trong chiến tranh các chất gây ngạt, khí độc hoặc các khí tương tự khác và các tác nhân vi khuẩn (Nghị định thư Geneva). Văn bản này nghiêm cấm việc sử dụng vũ khí hóa học, sinh học độc hại nhưng không hạn chế phát triển, sản xuất và dự trữ chúng.
Vũ khí hóa học
Vào ngày 22/4/1915, một đám mây màu xanh lục di chuyển đến khu vực ngã ba các vị trí của Pháp và Anh - quân đội Đức đã phóng ra khoảng 168 tấn clo. Có khoảng 15.000 người bị ảnh hưởng bởi khí gas, ít nhất 5.000 người trong số đó đã tử vong. Giai đoạn đi vào lịch sử là trận Ypres thứ hai, được coi là trường hợp đầu tiên sử dụng vũ khí hóa học (CW) dẫn đến cái chết hàng loạt.
Loại vũ khí hủy diệt hàng loạt này bao gồm các vũ khí mang độc tính của chất độc (OS). Phương tiện vận chuyển và sử dụng các chất này có thể là bom, rocket, đạn pháo, lựu đạn và mìn. Theo đặc tính tác động lên cơ thể con người, các tác nhân đó chia thành các dạng: làm tê liệt thần kinh, phồng rộp da, ngạt thở, gây kích thích và chứng tâm thần.
Ngoài Thế chiến I, vũ khí hóa học đã được sử dụng trong các cuộc xung đột khác. Cụ thể, nó được Nhật Bản sử dụng trong cuộc chiến với Trung Quốc, quân đội Italy dùng trong cuộc chiến với Ethiopia và Iraq đã sử dụng khí mù tạt trong cuộc chiến Iran-Iraq. Ngoài ra, các chất độc đã trở thành vũ khí tấn công khủng bố: vào tháng 3/1995, các thành viên của giáo phái Aun Senrikyo đã đặt 11 gói sarin là chất độc gây tê liệt thần kinh vào các toa tàu điện ngầm ở Tokyo. Hậu quả là có 13 người chết và 50 người khác bị thương nặng. Tổng cộng, có khoảng 5.500 nạn nhân phải nhận sự trợ giúp y tế.
Việc sử dụng vũ khí hóa học trong các cuộc xung đột quân sự đã trở thành bằng chứng về sự cần thiết của các thỏa thuận quốc tế để có thể ngăn chặn việc sử dụng vũ khí hóa học trong tương lai. Năm 1968, Ủy ban Giải trừ quân bị bắt đầu tiến hành thảo luận vấn đề cấm vũ khí hóa học và sinh học, sau đó nó được chuyển thành Hội nghị Giải trừ quân bị. Năm 1992 đã trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc (GA) một báo cáo hàng năm bao gồm nội dung của Công ước về cấm phát triển, sản xuất, tàng trữ và sử dụng vũ khí hóa học. Ngày 30/11/1992, GA đã thông qua Công ước và đã được Tổng thư ký Liên hợp quốc mở ký vào ngày 13/1/1993.
Công ước này bổ sung cho Nghị định thư Geneva, nghiêm cấm những người tham gia sản xuất và sử dụng vũ khí hóa học, cũng như buộc họ phải phá hủy tất cả các kho dự trữ vũ khí. 193 quốc gia đã trở thành thành viên của Công ước và OPCW (Tổ chức cấm vũ khí hóa học) giám sát việc tuân thủ các quy định của Công ước. Năm 2021, người đứng đầu tổ chức là Fernando Arias báo cáo rằng OPCW có thể xác nhận việc phá hủy 98,9% kho vũ khí hóa học trên thế giới. Thành viên duy nhất của OPCW chưa hoàn thành việc tiêu hủy vũ khí hóa học là Mỹ. Vào tháng 5/2022, Lầu Năm Góc công bố về việc phá hủy tên lửa M55 cuối cùng có chất độc thần kinh VX. Kingston Rife, phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ về giảm thiểu Đe dọa và Kiểm soát Vũ khí lưu ý rằng Mỹ đã đạt được cột mốc quan trọng trên con đường giải trừ hoàn toàn vũ khí hóa học. Ở nước Nga, vũ khí hóa học đã được tiêu hủy hoàn toàn vào năm 2017.
Vũ khí vi khuẩn
Virus, độc tố vi khuẩn, vi sinh vật gây bệnh hoặc bào tử của chúng với mục đích tiêu diệt hàng loạt nhân lực và dân thường của đối thủ được gọi là vũ khí vi khuẩn (BW). Vũ khí vi khuẩn cũng bao gồm phương tiện vận chuyển vi sinh vật gây bệnh và các vật trung gian động vật. Khi sử dụng BW, hầu như luôn có một thời gian ủ bệnh song không có biểu hiện của bệnh. Điều này làm trầm trọng thêm khả năng lây truyền của một số bệnh từ người nhiễm bệnh sang người khỏe mạnh dẫn đến dịch bệnh. Vi khuẩn và độc tố không mùi, không màu hoặc không vị và vi khuẩn, virus chỉ có thể được phát hiện sau khi xét nghiệm trong phòng thí nghiệm mà việc này cần có thời gian. Tất cả điều này gây khó khăn cho việc áp dụng kịp thời các biện pháp ngăn ngừa dịch bệnh.
Vũ khí vi khuẩn là một trong những loại vũ khí hủy diệt hàng loạt lâu đời nhất. Người ta tin rằng nó đã được sử dụng ở La Ma cổ đại khi ném xác những người chết vì dịch bệnh bên bức tường của các thành phố bị bao vây. Điều này có thể gây ra dịch bệnh cho nhiều người. Một trong những trường hợp đầu tiên sử dụng vũ khí vi khuẩn trong chiến tranh được cho là việc quân đội Anh chuyển những chiếc chăn bị nhiễm bệnh đậu mùa cho những người da đỏ đã bao vây Pháo đài Pitt vào năm 1763.
Việc sử dụng vũ khí vi khuẩn học cũng như vũ khí hóa học lần đầu tiên bị nỗ lực ngăn cấm bởi Nghị định thư Geneva năm 1925. Những khiếm khuyết của văn bản này đòi hỏi có một thỏa thuận mới là Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí vi khuẩn (sinh học) và độc tố hủy diệt của chúng (BTWC). Được mở ra để ký kết vào năm 1972, Công ước là hiệp ước quốc tế đầu tiên cấm sản xuất toàn bộ vũ khí các cấp độ. Điều đầu tiên của BTWC quy định rằng mỗi quốc gia tham gia Công ước cam kết không bao giờ phát triển, sản xuất, dự trữ, thu nhận hoặc giữ lại các tác nhân sinh học hoặc chất độc ngoài mục đích hòa bình. BTWC cũng gây ảnh hưởng đến vũ khí, thiết bị và phương tiện vận chuyển dành cho việc sử dụng vũ khí vi khuẩn trong các cuộc xung đột.
Vũ khí hạt nhân
Vũ khí hạt nhân là loại vũ khí hủy diệt hàng loạt mới nhất. Thiết bị nổ hạt nhân đầu tiên được gọi là Gadget được Mỹ thử nghiệm vào ngày 16/7/1945 tại Alamogordo, bang New Mexico. Hoạt động của vũ khí hạt nhân dựa trên năng lượng hủy diệt thu được từ phản ứng phân hạch hạt nhân hoặc sự kết hợp của phản ứng phân hạch và phản ứng nhiệt hạch. Vũ khí hạt nhân cho phép giải phóng một lượng lớn năng lượng từ một lượng vật chất tương đối nhỏ. Ví dụ, chiều dài quả bom B61 của Mỹ là 3,5m, còn đường kính là 33cm. Một vụ nổ với công suất 20 kiloton có khả năng tạo ra một vùng hủy diệt hoàn toàn trong khoảng 1km và phiên bản hiện đại của B61 có thể mang điện tích công suất lên tới 50 kiloton.
Trong toàn bộ lịch sử vũ khí hạt nhân trong các chiến sự, loại vũ khí hủy diệt hàng loạt này đã được sử dụng hai lần: vào giai đoạn cuối của Thế chiến II, Mỹ đã thả quả bom nguyên tử “Kid” xuống thành phố Hirosima và “Fat Man” xuống thành phố Nagasaki của Nhật Bản. Vào cuối những năm 1940, ước tính hai vụ nổ tại Nhật Bản đã cướp đi sinh mạng của hơn 200 nghìn người. Theo lời bà Reiko Nada, từng sống ở Nagasaki khi 9 tuổi vào năm 1945, bà có thể sống sót nhờ một ngọn núi ngăn cách giữa nhà bà và tâm chấn của vụ nổ.
Sau khi Mỹ ném bom Nhật Bản, vũ khí hạt nhân đã không còn được sử dụng. Nhưng vào năm 1962, cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ đã đi vào lịch sử như một cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã tạo ra mối đe dọa trực tiếp về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Sự việc này đã chứng minh sự cần thiết giải trừ hạt nhân. Năm 1963 Liên Xô, Mỹ và Anh đã ký Hiệp ước cấm thử hạt nhân trong khí quyển, trong không gian vũ trụ và dưới nước. Sau đó, họ muốn mở rộng đến một khuôn khổ vô điều kiện bằng Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện, được ký kết bởi 41 trong số 44 quốc gia thiết yếu để hiệp ước có hiệu lực.
Ngoài ra, còn có Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, kêu gọi ngăn chặn sự mở rộng vòng tròn của các cường quốc hạt nhân và năm 2021, Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân có hiệu lực. Thỏa thuận kêu gọi cấm phát triển, thử nghiệm, lưu trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng vũ khí hạt nhân có hiệu lực vào năm 2021. Tuy nhiên, không một cường quốc hạt nhân nào tham gia vào hoạt động của Hội nghị Liên hợp quốc mà tại đó các điều khoản của hiệp ước đã được thỏa thuận và một văn bản ràng buộc về pháp lý về việc cấm vũ khí hạt nhân đã được đưa ra biểu quyết.