Stryker - chiếc xe bọc thép không thích hợp để sử dụng trên chiến trường
Pháo trên bánh xe
Xe bọc thép chở quân của Mỹ không khác nhiều so với nguyên mẫu - thân xe và cách bố trí chung không thay đổi. Chiều cao tăng thêm một chút, gia cố lớp giáp bảo vệ và điều chỉnh hình dạng phía dưới. Đội xe gồm hai người, khoang chở quân chứa 9 quân nhân.
Động cơ diesel 350 mã lực cho phép Stryker hai cầu trước tăng tốc độ đến 100 km/ giờ trên đường cao tốc. Nhiên liệu đủ hoạt động gần 500km. Vỏ giáp trước có thể chịu được tác động của đạn xuyên giáp 14mm hoặc mảnh đạn 155mm. Vỏ bên và đuôi xe bảo vệ tốt khỏi đạn 7,62mm.
Vũ khí tiêu chuẩn là súng máy Browning cỡ nòng 12,7 hoặc 7,62mm. Có thể lắp súng phóng lựu tự động 40mm. Một số phiên bản được phát triển: súng cối 120mm tự hành, xe trinh sát, xe chỉ huy tham mưu, xe công binh và xe cứu thương.
Ngoài ra, còn có một phiên bản trang bị vũ khí hạng nặng - súng chống tăng 105mm, nhằm mục đích tấn công các vị trí kiên cố, boong-ke, xe bọc thép đối phương, nhưng Lầu Năm Góc đã sớm quyết định loại bỏ.
Họ đã xác định được các vấn đề hệ thống do súng và bộ nạp đạn tự động, mà chiếc xe bọc thép này lần đầu tiên áp dụng tại Hoa Kỳ. Ví dụ pháo tăng "Abrams" hiện vẫn được nạp đạn theo cách cũ -thủ công.
Quân đội đã tính toán các chi phí và đi đến kết luận không có ích lợi gì trong việc nâng cấp pháo tự hành. Việc thay thế Stryker nặng nề bằng hệ thống chống tăng Javelin di động tỏ ra dễ dàng hơn nhiều.
Các xe bọc thép Stryker thuộc lực lượng thiết giáp Trung đoàn Kỵ binh số 2, trong cuộc diễu hành trình diễn Dragoon Ride của Quân đội Hoa Kỳ tại cửa ngõ Riga. |
Không đáp ứng được mong đợi
Vào đầu những năm 2000, Lầu Năm Góc ngay lập tức đặt hàng hơn 2.000 xe bọc thép để giải quyết tình trạng thiếu phương tiện vận tải bộ binh cơ động. Đồng thời, xây dựng các lữ đoàn cơ giới chuyên dụng (Stryker brigade combat team, SBCT).
Mỗi đơn vị như vậy có khoảng 4.500 binh sĩ và sĩ quan, sử dụng 300 xe bọc thép bánh lốp nhiều phiên bản khác nhau. Từ quan điểm chiến thuật, SBCT nằm giữa bộ binh cơ giới dùng xe Humvee cơ động cao và các nhóm xe tăng hạng nặng.
Người ta cho rằng các lữ đoàn này có khả năng triển khai nhanh chóng và giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ chiến đấu khác nhau ở mọi nơi trên thế giới. Việc vận chuyển nhân sự và thiết bị do máy bay vận tải C-130 Hercules đảm nhận.
Năm 2004, đơn vị đầu tiên được gửi đến Iraq. Trong năm đó, người Mỹ đã nghiên cứu các chiến thuật sử dụng "lữ đoàn Stryker" trong các cuộc chiến, thử nghiệm xe bọc thép mới.
Bộ chỉ huy sau đó ghi nhận hiệu quả cao của các đơn vị xe bọc thép, đặc biệt là trong các trận chiến đấu đô thị. Tuy nhiên, các binh sĩ phàn nàn về những khiếm khuyết trong thiết kế, hỏa lực không đủ và vỏ giáp yếu.
Hóa ra xe bọc thép chỉ hoạt động tốt trên đường bằng phẳng và đường cao tốc - trên địa hình gồ ghề, xe bị dính bùn hoặc cát. Động cơ thường phải được sử dụng ở tốc độ cao, làm chúng nhanh chóng hư hỏng. Hệ thống treo không thể chịu được đường xấu: "Stryker" nặng hơn đáng kể so với các xe của Canada và Thụy Sĩ.
Một tính toán sai lầm nghiêm trọng khác của các nhà thiết kế là vỏ giáp, chỉ bảo vệ tốt trước những vũ khí nhỏ. Trong thực chiến, đối phương thích sử dụng súng chống tăng hơn. Đạn RPG dễ dàng xuyên thủng thân xe nên các phương tiện phải khẩn trương trang bị tấm lưới thép bổ sung.
Ngoài ra, do trọng tâm lớn, các xe thường bị lật khi va phải chướng ngại vật hoặc mìn. Hơn nữa, dây an toàn đã không cố định mọi người đúng cách khiến một số binh sĩ thiệt mạng.
Người ta đã cố gắng sửa chữa các khiếm khuyết. Ví dụ như lưới chống đạn chống tăng và vỏ thép treo được lắp đặt ban đầu từ nhà máy. Do đó, khối lượng tăng lên và phát sinh các phức tạp trong quá trình vận chuyển bằng đường hàng không - một số sửa đổi chỉ đơn giản là nằm ngoài giới hạn khả năng chuyên chở của máy bay vận tải.
Thiết bị điện tử và kính nhìn đêm mới cũng không tạo ra nhiều khác biệt. Stryker vẫn là một chiếc xe với một loạt các vấn đề chưa được giải quyết. Ngoài ra, việc hiện đại hóa yêu cầu thêm kinh phí cho toàn bộ chương trình.
Năm 2004, các tướng lĩnh Mỹ thực hiện một cuộc cải tổ lớn trong quân đội. Là một phần dự án Hệ thống chiến đấu trong tương lai (FCS), họ quyết định tạo ra một dòng xe bọc thép phiên bản có người lái và không người lái.
Hàng trăm tỷ đô la đã được chi ra, được lên kế hoạch triển khai lữ đoàn đầu tiên sử dụng thiết bị mới vào năm 2015 và hình thành 15 đơn vị vào năm 2030. Tuy nhiên, chương trình đã bị đóng lại một cách bất ngờ - theo diễn đạt chính thức, liên quan đến sự thay đổi trong chiến lược quốc phòng.
Sau đó, người Mỹ khởi động dự án xe chiến đấu bộ binh đầy hứa hẹn - Xe chiến đấu mặt đất (Ground Combat Vehicle - GCV), được cho là sẽ vượt qua M2 Bradly đã lỗi thời về khả năng bảo vệ, đồng thời nhẹ hơn, nhỏ gọn và cơ động hơn. Kết quả GCV hóa ra quá đắt để sản xuất hàng loạt - vào năm 2014, tất cả công việc đã bị đình chỉ.
Hiện Mỹ đang thực hiện một chương trình khác - Xe chiến đấu có người lái tùy chọn (Optionally Manned Fighting Vehicle - OMFV), liên quan đến việc tạo ra xe chiến đấu bộ binh bánh xích với trí tuệ nhân tạo và điều khiển từ xa.
Trong khi đó, Lầu Năm Góc hiện phải vận chuyển bộ binh và chiến đấu bằng M113 và M2 Bradly cũ, cũng như hiện đại hóa loại "cỡ nòng nhỏ" Stryker. Phiên bản cập nhật "A1" được giới thiệu cách đây vài năm: pháo 30mm, vỏ giáp gia cường, động cơ, hộp số mạnh hơn.
Một biến thể xe phòng không tầm ngắn cũng được cung cấp. Nhưng liệu Stryker này có trở nên phù hợp hơn trong chiến đấu so với các phiên bản trước hay không thì vẫn chưa rõ.