Quân đoàn tình báo Anh trong các thế chiến

Thứ Ba, 17/12/2024, 07:53

Kể từ Thế chiến II, Quân đoàn tình báo Anh (IC) đã triển khai cùng với quân đội Anh trong mọi hoạt động triển khai lớn của mình, gồm: Palestine, Cyprus, Hàn Quốc, kênh đào Suez, Brunei, Indonesia, Dhofar, Bắc Ireland, quần đảo Falkland, Vùng Vịnh, Phi Châu và Nam Tư cũ, Sierra Leone, Iraq và Afghanistan. Nhằm tưởng thưởng công lao xứng đáng, Quân đoàn tình báo (IC) đã được tuyên bố là một Quân chủng vào 1/2/1985...

Thế chiến I

Khi chiến tranh nổ ra vào năm 1914, Bộ Tình báo đặt tại Văn phòng chiến tranh đã xác định một số sĩ quan quân đội, sĩ quan cảnh sát thủ đô và những thường dân khác sẽ được triệu tập khi chiến sự nổ ra. Sau khi tối hậu thư của Anh gửi cho người Đức hết hạn vào ngày 5/8/1914, khoảng 50 cá nhân đã nhận được bức điện mời họ tham gia Quân đoàn tình báo (IC) vừa mới được thành lập.

IC đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá TGJ Torrie từ Trung đoàn kỵ binh nhẹ số 17 trực thuộc quân đội Anh Điêng, bao gồm 1 tòa nhà trụ sở, các đội bộ binh (cưỡi ngựa và xuống ngựa), 1 đội xe gắn máy và 1 đội trách nhiệm an ninh. Buổi ban đầu không có binh lính nào ngoại trừ những người hầu cận các sĩ quan được tuyển vào Tiểu đoàn dịch vụ số 10 (Những thợ săn Hoàng gia). Vào đúng thời điểm các sĩ quan cảnh sát và những người khác có trình độ dân sự phù hợp sẽ được tuyển dụng làm Cảnh sát tình báo, hoặc chuyển sang Trung đoàn súng trường số 10, hay giữ lại phù hiệu mũ của họ.

Quân đoàn tình báo Anh trong các thế chiến -0
Hai nhà diễn dịch hình ảnh và phân tích lưu lượng tại Bletchley Park (Anh).

Ngày 12/8/1914, IC đã lên tàu Olympia tại cảng Southampton sang Pháp với Lực lượng viễn chinh Anh. Đến ngày 9/9/1914, Thiếu tá Torrie rời IC (sau đó ông hy sinh trong cuộc chiến ở Somme vào năm 1916) và được thay thế bởi Đại úy (sau này là Thống chế) Lord Wavell. Ông Wavell chuyển đến trụ sở Bộ Tổng tham mưu vào ngày 7/12/1914. Công tác của IC và Bộ Tình báo (ID) trong suốt Thế chiến I đã mở rộng ra mọi chiến trường và sau phòng tuyến địch.

Thiếu úy Rolleston West đã sớm nhận được Huân chương cống hiến xuất sắc (DSO) năm 1914, ông đã lập mưu lấy các tấm bản đồ quân sự tại ngôi làng Pontoise (ở Pháp) trong khi bọn lính Đức đang tiến tới gần. Ông Rolleston West lưu ý rằng cây cầu ở làng Pontoise bắc qua sông Oise đang chuẩn bị phá hủy. Đây là thông tin tình báo quan trọng vì cây cầu là huyết mạch cuối cùng cần phải phá đi nhằm ngăn chặn lính kỵ binh của Tướng Alexander Von Kluck vượt sông và áp đảo lính Viễn chinh Anh đang tìm đường thoái lui.

Bất chấp lệnh rút lui từ chỉ huy lữ đoàn, Thiếu tá Rolleston West vẫn ở yên để hỗ trợ Trung úy công binh Pennycuik đặt thuốc nổ và cho nổ tung cây cầu ngay trước những cặp mắt kinh ngạc của bọn Đức đang đến. Là cựu sĩ quan cảnh sát thủ đô hoạt động như cảnh sát an ninh dã chiến nhằm xác định các điệp viên địch từ đủ quốc tịch gồm Pháp, Bỉ, Đức… Có một nhóm phá hoại người Đức nằm vùng hoạt động ở các bến tàu Antwerp và đã bị phát hiện bởi ông Edwin Woodhall - một sĩ quan cấp cao không được ủy nhiệm (NCO) mà sau đó được lệnh bảo vệ cho Hoàng tử xứ Wales trong thời gian ông phục vụ ở tiền tiến.

Cảnh sát an ninh dã chiến giúp đảm bảo phần lớn các vùng hậu cứ và những tuyến liên lạc vẫn được an toàn bởi các hoạt động lật đổ, gián điệp và phá hoại. Bên cạnh đó, thời bấy giờ tình báo tín hiệu được xem là một nghệ thuật quân sự mới. Từ những tháng đầu tiên của chiến tranh, quân Anh đã có thể định vị các đơn vị quân Đức thông qua việc tìm hướng đơn giản.

Người Đức đã chế tạo ra một hệ thống khai thác mạng liên lạc cố định rộng lớn và hoạt động song song với người Anh, cũng như vùng hậu tuyến. Quân Đồng minh chỉ biết đến thiết bị nghe lén của người Đức vào đầu năm 1916, song lại sao chép nó thành công. Đến cuối chiến tranh, thiết bị của người Mỹ đã tiến triển đến mức có thể theo dõi tín hiệu từ các đường dây điện thoại cố định cách xa 2,7 km - tương đương về mặt kỹ thuật với việc theo dõi tín hiệu phát ra từ máy tính cá nhân hoặc điện thoại di động. Việc chặn bắt lưu lượng điện thoại và không dây đã được thực hiện bởi Nha kỹ sư tín hiệu Hoàng gia (SSRE).

Nhân viên của Quân đoàn tình báo (IC) được chiêu mộ trong các tổ chức giải mã (mật mã). Ngay từ năm 1917, IC đã được hỗ trợ bởi 12 thành viên của Quân đoàn phụ trợ nữ binh (tên viết tắt Hush-WAACs). Bên cạnh đó, quân đoàn bay Hoàng gia (RFC) thuở ban đầu là một đơn vị quan sát trên không được dùng cho việc trinh sát và phát hiện các mục tiêu pháo binh.

Diều khí cầu cũng được sử dụng để có cái nhìn tốt hơn về chiến trường. Lần đầu tiên nhiếp ảnh trên không đã phát huy hiệu quả trong chiến địa Neuve-Chapelle năm 1915 khi các phi công buộc phải bay cách mặt đất 242,8m trong lúc đó các nhà báo của tờ Observer nhoài người ra cửa buồng lái để chụp những bức ảnh yêu cầu dưới làn hỏa lực. Cùng năm đó, hình ảnh lập thể được giới thiệu bởi Trung úy Bingham của phi đội RFC 11 sau khi anh ta mua được một chiếc máy quay thương mại dân sự ở Amiens (Pháp).

Tháng 9/1916 là tháng ra đời Trường nhiếp ảnh, lập bản đồ và trinh sát đầu tiên đặt ở Farnborough (Anh). Việc giải nghĩa nhiếp ảnh trên không chủ yếu được thực hiện ở cấp độ Bộ Tư lệnh quân đoàn. Một lượng lớn ảnh đã được thu thập. Từ giữa tháng 7 đến tháng 9/1916, ước tính rằng có khoảng 19.000 bức ảnh đã được chụp tại chiến trường Somme (Pháp).

Làm việc trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Tổng hành dinh (GHQ) và sau này nơi đây trở thành Cục Tình báo mật (SIS), các nhân viên của Quân đoàn tình báo (IC) đã thành công trong việc điều hành một số điệp viên nằm vùng trong hậu tuyến địch. Tại Châu Âu, những người này có thể theo dõi chuyển động của lính Đức trên khắp lục địa, đồng thời cung cấp những dự báo kịp thời và chính xác về ý định của người Đức ở các mặt trận Tây, Đông. Thêm nữa, IC cũng phát triển nên các kỹ thuật thẩm vấn tù chiến tranh và dân tị nạn chiến tranh, cũng như tham gia vào những hoạt động tâm lý chiến. Tàn chiến cuộc, phần lớn IC đã bị giải thể.

Thế chiến II

Vào những năm trước Thế chiến II, chưa từng tồn tại nỗ lực lập kế hoạch dự phòng nào cho quân đoàn tình báo (IC) thời chiến. Không như Thế chiến I, quân đội đã không có sự chuẩn bị nào cho Thế chiến II. Song nếu không có công của Thiếu tá (sau này là Nguyên soái Sir Gerald Templer) thì sẽ không có việc thành lập tổ chức tình báo vào ngày 4/9/1939. Công trình của ông Gerald Templer được hậu thuẫn bởi Đại úy F C Davies MC (người đã được đào tạo trong Phân cục An Ninh) cho phép Lực lượng viễn chinh Anh triển khai 31 phân cục an ninh dã chiến ở Pháp.

Trên nền tảng nhỏ bé này, IC đã phát triển thành 3.040 sĩ quan và 5.930 cấp bậc khác. IC đã chính thức thành lập với sự chuẩn tấu của Hoàng đế George VI vào ngày 15/7/1940 và được công bố vào ngày 19/7/1940 theo Lệnh 112 của quân đội. Một lần nữa, kỹ năng ngôn ngữ và thẩm vấn của nhân viên IC lại được dùng để moi tin từ tù chiến tranh, và từ dân ở những nước được giải phóng bởi quân Đồng minh.

Phân cục an ninh dã chiến cũng bao gồm Đội nhảy dù với sự thành lập của Đội an ninh dã chiến 89 (FSS) trong tháng 6/1942. Hạ sĩ Lance Loker là thành viên dù đầu tiên đeo phù hiệu đã nhảy từ oanh tạc cơ Whitley bên trên sân bay Manchester Ringway (tại địa điểm của sân bay Manchester hiện đại). Những thành viên khác của IC phải học nhảy dù tại Ringway và đâu đó trước khi được thả xuống đất làm gián điệp cho Cục Tình báo mật (SOE, Anh) ở Châu Âu và Viễn Đông. Đích thân Thủ tướng Winston Churchill trao trọng trách cho SOE nhằm “thổi lửa Châu Âu” thông qua các hoạt động phá hoại đằng sau phòng tuyến địch. Các đơn vị SOE cũng thu thập thông tin và tình báo. Những chiến công của SOE đã được mô tả trong bộ phim năm 1946 mang tựa để “Đã đến lúc tiết lộ sự thật”, cho thấy công tác huấn luyện và triển khai 2 điệp viên (một người tên gọi là Harry Ree, Đại úy của IC).

Harry Ree (một người phát âm tiếng địa phương Mancunian nặng đến mức anh ta phải hoạt động ở vùng Alsace nhằm che giấu giọng Pháp khá độc đáo của mình) đã thành công trong việc hình thành một nhà máy Peugeot chuyên sản xuất linh kiện xe tăng. Những nỗ lực thực hiện công kích nhằm san phẳng nhà máy này đã thất bại: ông Ree nhẹ nhàng trao đổi với chủ nhà máy và người này chấp nhận tự phá dỡ nơi này. Sau đó ông Ree vượt biên Pháp sang Thụy Sỹ, và bị thương nặng nhưng vẫn sống sót. Ông Ree được trao các giải thưởng DSO, OBE, và Huân chương Bắc đẩu bội tinh của Pháp.

Mặt khác, các thành viên của IC cũng tham gia vào việc hình thành nên Nhóm hoang mạc tầm xa với Trung tá Patrick Clayton (từ IC) đã trở thành một trong 4 nhà sáng lập ban đầu của Cục Hàng không đặc biệt (SAS). Ăn mặc như người Đức, một sĩ quan khác của IC là Thiếu tá Patrick Leigh-Fermor, cùng với sĩ quan Billy Moss (do lực lượng du kích Creta hỗ trợ) đã bắt cóc tướng Đức tên là Kreipe (tướng chỉ huy quân Đức trên đảo Crete) và đưa ra thẩm vấn. Câu chuyện này được tác giả Billy Moss kể lại trong cuốn sách của ông mang tựa đề “Tôi sắp gặp Nguyệt Hằng”, một bộ phim cùng tên đã được khởi quay.

Một số diễn dịch viên ảnh là thành viên của IC khi mà bộ phận Lục quân được tái lập bởi tướng quân (sau này là Nguyên soái) Sir Alan Brooke không tin rằng Không lực Hoàng gia Anh (RAF) có đủ các kỹ năng cần thiết để hỗ trợ những hoạt động trên bộ. Các diễn dịch viên ảnh  (giờ đây được hiểu là Những nhà phân tích hình ảnh IAs) sẽ cung cấp hỗ trợ hình ảnh cho mọi hoạt động chính của cuộc chiến, cùng nhiều hoạt động nhỏ hơn. Hình ảnh được phân tích và cung cấp đã hậu thuẫn cho sự thành công của cuộc đột kích Bruneval bởi bàn tay của lính biệt kích vào năm 1942 khi thiết bị radar quan trọng của Đức bị thu giữ.

Các diễn dịch viên ảnh Lục quân cũng giúp xác định 2 vị trí tên lửa V1 tại Peenemunde và Pas-de-Calais trong tháng 4/1943, và sau đó là nhóm Chiến dịch Bodyline đã xác định những vị trí chứa V2 trong năm 1944. Nổi tiếng nhất là khi các diễn dịch viên ảnh của IC đã giúp xác định những đơn vị tăng Panzer (Đức) có mặt tại khu vực Arnhem chỉ trước khi phát động chiến dịch Market Garden.

Một khía cạnh đáng chú ý khác đó là tình báo tín hiệu (Sigint) đã phát triển vượt bậc xuyên suốt cuộc chiến so với việc đánh chặn chiến thuật đơn giản và tìm hướng trong Thế chiến I. Tầm quan trọng của các nhóm làm việc để giải Mật mã Enigma tại Bletchley Park giờ đây đã được biết đến rộng rãi - IC đã đóng góp đáng kể trong việc thu thập nhiều thông tin thô. Một trong những địa điểm thu thập tình báo hiện thời là trụ sở của IC: Chicksands tại Bedfordshire. Khoảng  40% nhân sự quân đội làm việc tại Bletchley Park có đeo phù hiệu của IC.

Một kỹ năng quan trọng khác của Sigint là phân tích lưu lượng, giải thích những thông tin truyền tải, số lượng và bản chất lưu lượng, vị trí các máy phát…. Phần lớn tình báo chiến lược giá trị cao đã được các nhà phân tích của IC thu được trong lúc làm việc về lĩnh vực này. Ở cấp độ chiến thuật, những cỗ xe thân hộp còn được gọi là “Gin Palace” thường hoạt động như những đơn vị chặn tín hiệu di động, chúng cung cấp hỗ trợ cho các hoạt động tác chiến ở cấp độ quân đoàn và sư đoàn.

Điều chưa biết là IC còn đóng vai trò tích cực trong việc truy bắt các tội phạm chiến tranh, và những thành viên của đơn vị này còn trực tiếp tham gia vào vụ bắt giữ Heinrich Himmler tại Bremervorde. Tháng 1/1945, IC có khoảng 3.040 sĩ quan và 5.930 binh lính với 1.553 sĩ quan được điều động.

Quân đoàn tình báo Anh trong các thế chiến -0
Đại tá đầu tiên của Quân đoàn tình báo Anh (IC) là Nguyên soái Hoàng tử Philip.

Năm tháng thời hậu chiến

Kể từ Thế chiến II, IC đã triển khai cùng với quân đội Anh trong mọi hoạt động triển khai lớn của mình, gồm: Palestine, Cyprus, Hàn Quốc, kênh đào Suez, Brunei, Indonesia, Dhofar, Bắc Ireland, quần đảo Falkland, Vùng Vịnh, Phi Châu và Nam Tư cũ, Sierra Leone, Iraq và Afghanistan. Nhằm tưởng thưởng công lao xứng đáng, Quân đoàn tình báo (IC) đã được tuyên bố là một Quân chủng vào 1/2/1985. Một quân chủng được định nghĩa là những quân đoàn có vai trò cận chiến với kẻ thù. Quyền tự do của quận Ashford (xứ Kent, Anh) đã được trao cho IC trong năm 1979, khiến IC được toàn quyền diễu hành qua quận này với lưỡi lê cắm sẵn và cờ tung bay.

Đại tá đầu tiên của IC là Nguyên soái Hoàng tử Philip (Công tước xứ Edinburgh). Sau khi ông qua đời vào năm 2021, con gái ông là công chúa Anne được Nữ hoàng Anh bổ nhiệm kế tục vị trí của cha. IC có các liên minh nặng ký với Quân đoàn tình báo Australia (AIC) và nhánh tình báo của Lực lượng vũ trang Canada. IC còn thiết lập quan hệ với Quân đoàn tình báo Malaysia (MIC), Quân đoàn tình báo quân đội Mỹ, tàu ngầm Hải quân  Hoàng gia HMS Talent và nhánh tình báo chiến đấu lính thủy đánh bộ Hoàng gia. Một mối quan hệ đặc biệt của IC với Đội điều dưỡng sơ Yeomanry (Quân đoàn tình nguyện công chúa). Cuối cùng, kể từ năm 1997, Tổng hành dinh và công tác đào tạo tân binh của IC diễn ra tại Chicksands ở Bedfordshire (Vương quốc Anh).  

Phan Bình (Tổng hợp)
.
.
.