Vai trò thực sự của Reagan trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh

Thứ Tư, 17/03/2021, 09:58
Các cuộc tranh luận về vai trò của Mỹ, cụ thể là Tổng thống Ronald Reagan trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh đã xuất hiện từ rất sớm, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn bước ngoặt năm 1988-1991.

Tuy nhiên, gần đây có những thông tin cho rằng, người có công lớn trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh là cựu Ngoại trưởng trong chính quyền Reagan, ông George Shultz. Vậy vai trò thực sự của Tổng thống Reagan để chấm dứt Chiến tranh Lạnh là gì?

Học thuyết Reagan và sự sụp đổ của Liên Xô

Đầu tháng 2 vừa qua, Kênh Arte của châu Âu đã chiếu 6 tập phim tài liệu, trong đó có phần tái hiện chính sách đối ngoại dưới thời Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Cùng thời điểm trên, cựu Ngoại trưởng trong chính quyền Reagan, ông George Shultz, qua đời ở tuổi 100. Trong lời cáo phó công bố trên truyền thông Mỹ, ông Shultz được ca ngợi là người giúp Washington giành ưu thế trước Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh. Hai thông tin không đồng nhất trên khiến không ít người đặt câu hỏi: “Liệu vai trò thực sự Tổng thống Reagan trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh là gì?”.

Theo bộ phim tài liệu trên, Tổng thống Reagan bắt đầu liên hệ với Moscow trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, trước khi ông Gorbachev được bầu là Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vào tháng 3-1985. Cũng trong năm này, Tổng thống Reagan và nhà lãnh đạo Gorbachev đã có cuộc gặp tại Geneva (Thụy Sỹ). Bộ phim trên tiết lộ, một trong mối quan tâm chung giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ-Xô khi đó là vấn đề hạt nhân.

Nhà lãnh đạo Gorbachev muốn thay đổi chiến lược “Đảm bảo hủy diệt lẫn nhau” (MAD) - một học thuyết cho rằng 2 siêu cường hạt nhân Mỹ và Liên Xô sẽ an toàn, miễn là hai bên duy trì đủ số đầu đạn hạt nhân để tiêu diệt đối phương nếu một trong 2 bên phóng tên lửa trước. Thay vào đó, ông Gorbachev muốn khai thác tiềm năng của ý tưởng “an ninh chung”, trong đó cho rằng Liên Xô có thể bảo vệ chính mình khỏi một cuộc tấn công của Mỹ bằng cách đẩy mạnh hợp tác.

Ở bên kia “bức màn sắt”, Tổng thống Ronald Reagan theo đuổi “Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược” (SDI). SDI sử dụng các hệ thống có căn cứ trên không gian và mặt đất để bảo vệ Mỹ khỏi các cuộc tấn công bằng tiên lửa hạt nhân liên lục địa. Reagan tin rằng, lá chắn quốc phòng này có thể khiến chiến tranh hạt nhân không thể xảy ra, nhưng không tin tưởng rằng kỹ thuật như thế có thể hoạt động. Việc này khiến những người chống đối chương trình gán cho SDI cái tên là "chiến tranh giữa các vì sao" và cho rằng mục tiêu kỹ thuật là không thể nắm bắt được.

Tổng thống Ronald Reagan phát biểu ngày 12-6-1987, trong đó thách thức nhà lãnh đạo Gorbachev phá vỡ bức tường Berlin. Ảnh: AFP.

Gorbachev cũng có vẻ nghi ngờ kế hoạch của Reagan nên đã cảnh báo nhà lãnh đạo Mỹ về một cuộc chạy đua vũ trang tiềm tàng trong không gian. Ông cũng không tin lời hứa của Tổng thống Reagan về việc chia sẻ công nghệ SDI với Liên Xô một khi nó được phát triển. Về phần mình, Tổng thống Reagan thuyết phục rằng SDI chỉ đơn thuần là một công nghệ phòng vệ chứ không phải là vũ khí không gian. “Cuộc gặp ở Geneva năm 1985 ban đầu có vẻ như không mấy thành công. Tuy nhiên, cuối cùng Reagan và Gorbachev cũng tìm được tiếng nói chung, theo đó hai bên cần phải nỗ lực để ngăn chặn cuộc chạy đua vũ trang. Hai nhà lãnh đạo đã ra tuyên bố chung, được xem như nền tảng để đặt dấu chấm hết cho cuộc Chiến tranh Lạnh của trật tự thế giới lưỡng cực”, bộ phim tài liệu nhấn mạnh.

Bộ phim cũng nêu rõ, Tổng thống Reagan đã đưa ra “học thuyết Reagan” với mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản và chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Trong suốt 2 nhiệm kỳ của Reagan, từ năm 1981 đến 1989 và kéo dài đến cuối Chiến tranh Lạnh năm 1991, Học thuyết Reagan là đầu mối của chính sách đối ngoại của Mỹ. Reagan và các cộng sự đã đưa ra chiến lược và mục tiêu rất rõ ràng cho thời kỳ này là khẳng định tính ưu việt của các giá trị phương Tây, lợi dụng các lỗ hổng kinh tế của Liên Xô để làm suy yếu sức mạnh địa chính trị của nước này cũng như khối XHCN. Reagan tái khẳng định các giá trị của Mỹ, thúc đẩy dân chủ, sử dụng nhân quyền như một vũ khí...

Với học thuyết Reagan, chính quyền Reagan đã đặt nền móng cho chương trình viện trợ quân sự cho “các chiến binh tự do”. Cụ thể, chính sách này đã ngấm ngầm hỗ trợ quân nổi dậy Contra trong các đợt tấn công vào chính phủ Sandinista cánh tả tại Nicaragua, hỗ trợ phiến quân ở Afghanistan trong cuộc chiến chống lại Hồng quân Liên Xô... Điển hình là trong một bài phát biểu hồi tháng 6-1987, Tổng thống Reagan thách thức nhà lãnh đạo Gorbachev phá vỡ bức tường Berlin ngăn cách Đông Đức và Tây Đức tồn tại từ năm 1961. Quân đội Mỹ còn tham gia xâm chiếm quốc đảo nhỏ Grenada ở Caribbean, giết và bắt giữ 750 binh sĩ Cuba và thành lập chính phủ mới. Mặc dù sự can thiệp này có một số lỗ hổng chính trị tiêu cực ở Mỹ, nhưng cuộc xâm chiếm trên rõ ràng báo hiệu chính quyền Reagan sẽ mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ nơi nào ở Tây bán cầu…

Từ trái sang phải: Nhà lãnh đạo Gorbachev, Tổng thống Ronald Reagan và Tổng thống đắc cử George H. W. Bush trong một cuộc gặp ở New York ngày 7-12-1988.

Reagan đã tiếp tục bảo vệ chủ trương của mình trong suốt hai nhiệm kỳ Tổng thống. Trong diễn văn từ biệt vào năm 1989, ông tuyên bố thành công trong việc làm suy yếu chính phủ Sandinista ở Nicaragua, buộc Liên Xô rút khỏi Afghanistan, và chấm dứt cuộc xung đột ở Angola. Tuy nhiên, giới phê bình trong nước lại chỉ trích học thuyết này, cho rằng việc viện trợ cho “các chiến binh tự do” chỉ khiến những cuộc xung đột đẫm máu ngày càng kéo dài và leo thang, và thực chất chỉ hỗ trợ thành phần chuyên đàn áp và phi dân chủ ở các nước kể trên.

Mặc dù giúp nhân loại không phải chứng kiến thêm một cuộc chiến tranh hạt nhân nhưng Tổng thống Reagan được xem là nhân vật đóng vai trò chủ chốt dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và kết thúc Chiến tranh Lạnh. Jack Matlock, chuyên gia về Liên Xô trong Hội đồng An ninh Quốc gia (1983-1987) sau đó là Đại sứ Mỹ tại Moscow (1987-1991), đã nhiều lần viết rằng: “Về mặt tâm lý và tư tưởng, Reagan và Gorbachev đã lật ngược tình thế Chiến tranh Lạnh năm 1988 mà không có người chiến thắng”. Nhưng Tổng thống George H.W Bush (Bush cha), người kế nhiệm của Reagan thì không tin như vậy. Tổng thống George H.W Bush và hầu hết phụ tá của ông còn cho rằng, mục đích thực sự của “cuộc tấn công hòa bình của Gorbachev” gây nguy hiểm cho các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương và chấm dứt vai trò của Mỹ ở châu Âu.

Cuộc gặp giữa Tổng thống Ronald Reagan và nhà lãnh đạo Gorbachev tại Geneva năm 1985 là nền tảng để đặt dấu chấm hết cho cuộc Chiến tranh Lạnh.

George Shultz - cánh tay đắc lực của Tổng thống Reagan

Ngày 6-2 vừa qua, cựu Ngoại trưởng George Shultz qua đời khi vừa tròn 100 tuổi. Trong bài cáo phó được truyền thông Mỹ đăng tải, ông Shultz được tôn vinh là người góp phần quan trọng trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh kéo dài suốt 4 thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Theo Kênh truyền hình CNN của Mỹ, ông George Shultz sinh ra tại thành phố New York vào tháng 12-1920. Ông Shultz tốt nghiệp Đại học Princeton trước khi phục vụ trong lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau đó, ông lấy bằng tiến sĩ về kinh tế công nghiệp năm 1949 tại Viện Công nghệ Massachusetts. Ông Geogre Shultz từng đảm nhận nhiều vị trí ở các bộ ngành khác nhau của hệ thống chính trị Mỹ như Bộ trưởng Lao động (1969-1970), Bộ trưởng Tài chính (1972-1974).

George Shultz được Tổng thống Ronald Reagan bổ nhiệm làm Ngoại trưởng Mỹ vào tháng 7-1982 khi chính sách đối ngoại Mỹ gặp khủng hoảng liên quan đến các vấn đề quan hệ Xô - Mỹ, quan hệ Mỹ - NATO, nguy cơ chiến tranh thương mại Mỹ- Nhật, vấn đề bán vũ khí cho Đài Loan, cuộc chiến Israel-Lebanon...  Từ khi được bổ nhiệm, ông Shultz nhanh chóng trở thành cánh tay đắc lực của Tổng thống Reagan trong việc tái hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ. Ông đã giải quyết được các vấn đề do người tiền nhiệm để lại và trở thành người đồng hành với Tổng thống Reagan. Ngoại trưởng Shultz là một trong số ít người đã nhận ra một số xu hướng toàn cầu đang nổi lên, trong đó có làn sóng chuyển giao dân chủ ở châu Á, Mỹ Latinh và Đông Âu, và ông đã coi dân chủ là ưu tiên chính sách đối ngoại Mỹ.

Quân nổi dậy Contra ở Nicaragua do CIA dựng lên. Ảnh: Getty.

Ngoại trưởng Shultz và Tổng thống Reagan cũng nhận thấy rõ bản chất của Chiến tranh Lạnh: Đó là một cuộc chiến tranh về ý thức hệ chồng chéo lên cuộc chiến tranh giành vị trí siêu cường. Ông nhất trí với Tổng thống Reagan về quan điểm “hòa bình thông qua sức mạnh” và cho rằng một quân đội mạnh và ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực sẽ càng củng cố vị thế trên bàn đàm phán và có thể dẫn đến các giải pháp ngoại giao. Điều này đi ngược lại với hiểu biết thông thường của thời đó, coi xung đột là một “thế trận ổn định” giữa hai khối đối đầu. Từ đó kéo theo chiến lược tấn công mới của chính quyền Reagan là thúc đẩy tự do chính trị, kinh tế và tôn giáo trên toàn thế giới thay vì tấn công Liên Xô “danh bất chính, ngôn bất thuận” như trước đây.

Ngoài ra, ông Shultz còn góp công hoàn thành hiệp ước lịch sử loại bỏ tên lửa hạt nhân tầm trung và tầm ngắn (INF) của các siêu cường quốc. INF là một thỏa thuận giữa chính quyền Washington và Moscow, được Tổng thống Ronald Reagan và Tổng Bí thư Gorbachev ký ngày 8-12-1987 tại Washington. Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 1-6-1988, và chính thức chấm dứt vào ngày 2-8-2019, do phía Mỹ đơn phương rút khỏi hiệp ước.

Theo Reuters, tuy có những thành công đáng kể, ông Shultz đã thất bại trong việc mang lại hòa bình cho Trung Đông và Trung Mỹ, những khu vực mà cá nhân ông đã đầu tư công sức đáng kể. Mặc dù vậy, cựu Ngoại trưởng George Shultz được các chính khách Mỹ đánh giá là người từng góp phần chấm dứt Chiến tranh Lạnh và định hình thế giới.

Dù có chút khác biệt về Sáng kiến SDI nhưng Ngoại trưởng George Shultz vẫn được cho là cánh tay đắc lực, người đồng hành của Tổng thống Reagan. Theo báo chí Mỹ, nếu không có Shultz, kế hoạch làm suy yếu nền kinh tế Liên Xô khiến nước này sụp đổ năm 1991 và chấm dứt Chiến tranh Lạnh của Tổng thống Reagan chắc chắn sẽ gặp khó khăn hơn nhiều.

Yên Bình
.
.
.