Lịch sử thế giới ngầm:

Kỳ 4: Cuộc đời một trùm xã hội đen mặc áo lính Sài Gòn

Chủ Nhật, 14/01/2007, 15:33
Trùm xã hội đen Năm Vĩnh nổi tiếng là kẻ tạo tiền lệ kinh nghiệm cho nhiều tên giang hồ sau này học tập là: đăng lính để trốn tù tội, sử dụng uy lực của "quân đội Việt Nam Cộng hòa" để tác oai tác quái và ăn cướp.

Sau Đại Cathay, Tín Mã Nàm, cùng thời với những Sơn Đảo, Lâm Chín Ngón, Điền Khắc Kim... ở Sài Gòn, mảnh đất miền Trung cũng xuất hiện một loạt tên tuổi đen trong làng dao búa.

Nổi bật trong số đó là tên cướp Năm Vĩnh, kẻ được giới giang hồ mệnh danh là "con hùm xám miền Trung", từng làm kinh hoàng những người dân lao động nhiều địa phương khoảng những năm đầu thập niên 70.

 Năm Vĩnh sinh năm 1947 tại Quảng Ngãi, có một tuổi thơ khá êm đềm, được ăn học tại Trường trung học Bồ Đề, Quảng Ngãi – một ngôi trường nổi tiếng, đào tạo được không ít nhân tài cho rẻo đất miền Trung.

Học khá nhưng tính tình hiếu động, có phần hung bạo, Vĩnh thường xuyên trốn lớp để tìm thầy học võ. Vĩnh học qua rất nhiều lò. Ở lò nào, hắn cũng bị đuổi vì thường xuyên đòi thách đấu với các sư huynh để phân chia cao thấp. 18 tuổi, trình độ võ thuật của Năm Vĩnh đã khá.

Để khẳng định trình độ, thay vì thượng đài, Vĩnh chọn cách gây sự đánh nhau, một mình đánh đôi, đánh ba ngay trên đường phố, sân trường. Lần nào hắn cũng thắng, trong khi nạn nhân của hắn toàn là... bạn học. Vĩnh bị đuổi khỏi trường Bồ Đề. Sự liều lĩnh, hung bạo và đẳng cấp võ nghệ của Năm Vĩnh đã khiến đám du thủ du thực tỉnh lẻ bạt vía, đành chắp tay quy phục, suy tôn Vĩnh làm đại ca.

Mảnh đất đầu tiên Năm Vĩnh chọn để  hành sự là thị trấn Mỹ Ca nằm bên quốc lộ I, cạnh quân cảng Cam Ranh, căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ. Ở miền Nam Việt Nam lúc đó ở đâu có lính Mỹ là ở đó các loại tệ nạn tha hồ hoành hành. Với một cây dao chặt đá lưỡi răng cưa lởm chởm nặng trịch, Năm Vĩnh nhanh chóng đánh bạt bọn ma cô, đầu gấu xứ này, giành quyền bảo kê thu thuế, giật các phòng trà, tiệm nhảy, nhà thổ của toàn thị trấn.

Tiền bạc bất lương biến Năm Vĩnh thành “vua con” của vùng quân cảng. Ngạo mạn và sa đà, Năm Vĩnh còn ngang nhiên chống lại cả cảnh sát, cuối cùng “lỡ tay” chém chết một trung úy quân cảnh. Do đó hắn bị tầm nã ráo riết ngay khi tên tuổi mới nổi lên trong giới giang hồ.

Để tránh rơi vào vòng lao lý với một cái án rất nặng, Năm Vĩnh chọn cho mình giải pháp duy nhất: đăng lính. Với kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, người Mỹ bắt đầu rút dần quân đội về nước. Để bù đắp quân số, quân đội Sài Gòn ráo riết bắt lính.

Bất cứ một thanh niên lành lặn tuổi từ 18 đến 37 nào cũng có thể nộp đơn xin vào quân ngũ ngay mà không hề bị xét hỏi lôi thôi. Đặc biệt, đăng lính vào khoảng từ ngày 10 đến 20 hàng tháng thì càng chắc chắn được  tuyển quân ngay. Lý do đơn giản: 10 hoặc 20 ngày lương đầu tháng của chú tân binh sẽ nghiễm nhiên chảy vào túi các “thầy” tuyển quân dịch, đó là chưa kể thêm khoản định mức 400đ (tiền ngụy)/tân binh được quân đội cho hưởng.

Năm 1970, dù đang bị truy nã về tội giết người nhưng máu yêng hùng của Năm Vĩnh vẫn thôi thúc hắn. Với tờ khai mang tên Nguyễn Văn Biên, quê ở Phú Yên, hắn quyết định chọn Trung đoàn 44 nổi tiếng “đầu gấu” để đăng lính. Lúc này, Trung đoàn 44 đang thuộc quyền chỉ huy của Trung tá Lầu Cắm Bảo tức Lưu Kim Bảo.

Nhưng chưa đầy một năm sau, khi “Chiến dịch Lam Sơn 719” đánh Hạ Lào vừa mở màn, nhìn thấy xác đồng ngũ được trực thăng bốc về tuyến sau nhiều la liệt khiến tên du đãng sợ mất mật đành chọn giải pháp mang thêm một lệnh truy nã về tội đào ngũ nữa để mong được bảo toàn mạng sống.

Sau hai tháng trời sống chui rúc cạnh sân bay Nha Trang nhờ vào sự bao bọc của đám ma cô du đãng thành phố biển, Năm Vĩnh nhận ra rằng không thể xưng hùng xưng bá bằng con đường đơn thương độc mã, chỉ cậy vào võ nghệ và sự liều lĩnh.

Để che giấu tung tích, tránh bị pháp luật sờ gáy, hắn làm giả hồ sơ đổi tên mới là Nguyễn Văn Vĩnh và chọn Trung đoàn 53 để quay lại làm lính. Tại quân trường Dục Mỹ (Ninh Hòa, Khánh Hòa), Năm Vĩnh nhanh chóng kết giao với Năm Cao, trùm mặt rô ở Nha Trang, cũng vào lính để trốn truy nã.

Nhưng 3 tháng sau, Năm Vĩnh và Năm Cao lại đào ngũ và liên kết với Năm Càri. Từ đó, đám du đãng Nha Trang có một nhóm thủ lĩnh mới được giới giang hồ gọi là “Ba năm mười lăm” gồm Năm Vĩnh, Năm Cao và Năm Cari, đóng tại căn lầu ở cư xá Sân bay do Năm Cao mua.

Sau hơn một năm hùng cứ thành phố biển, “Ba năm mười lăm” tan rã trước sức mạnh của tổ chức tội phạm Hiệp “ruồi” tức Hiệp “súng sáu”, trùm bến xe An Đông ra Nha Trang. Mất lãnh địa, lại bị hàng loạt tên du đãng khác vừa từ mặt trận trở về dọa “làm thịt”, Năm Vĩnh và Năm Cao vội bỏ Nha Trang lên Cao nguyên tìm nơi ẩn nấp. Cái “hang” mà chúng chọn là Liên đoàn  21 Biệt động quân.

Trở lại quân đội với trang phục rằn ri nâu, mũ nồi nâu, vị trí của Năm Vĩnh và đồng bọn đã thay đổi hẳn. Lính tráng toàn Cao nguyên không tên nào không từng nghe qua danh xưng “đại ca Năm Vĩnh”, “hùm xám” miền Trung, chỉ huy các đơn vị cũng không bao giờ bắt hắn và bọn đàn em phải ra trận. Bù lại, phần ăn nhậu, hút xách của các “thầy” được chi đủ, cộng thêm khoản lương lính của chúng, đến tháng các sĩ quan cứ việc giở sổ lương mà lấy.

Dĩ nhiên Năm Vĩnh nổi tiếng đến thế thì tung tích hắn không cần tìm cũng thấy, quân cảnh không khó gì mà không tìm ra để tóm cổ tên tội phạm đã từng giết người và đào ngũ như cơm bữa này. Nhưng mỗi lần có công văn tầm nã Năm Vĩnh, sĩ quan các đơn vị lại sẵn sàng báo cáo là “không hề có tên đương sự trong danh sách”, tiếp tục che chở cho Năm Vĩnh bằng cách chuyển hắn sang một bộ phận khác. Cảnh sát biết cũng lờ đi chẳng dại gì làm to chuyện truy nã một thằng đầu trâu mặt ngựa, lơ mơ ăn đạn của cả hai bên.--PageBreak--

Lợi dụng thế tự do, tên du đãng mặc áo lính dồn hết thì giờ để tổ chức hai việc: bán ma túy và mở sòng bài phục vụ cho những tên lính Vùng II sầu đời vừa trở về sau các cuộc hành quân. Sau Vùng I (từ Đà Nẵng đến Quảng Trị), Vùng II chiến thuật, đặc biệt là khu vực Cao nguyên là chiến trường thường xuyên xảy ra đụng độ, lính tráng thường xuyên bị ném vào các chiến dịch quy mô.

Để quên cái chết luôn kề bên, lính tráng vùng chiến thuật này đều bạt mạng, hết sức vô kỷ luật và nhanh chóng ngã vào vòng tay của ma túy. Nghề bán thuốc phiện giúp Năm Vĩnh giàu nứt đố đổ vách. Có tiền, Vĩnh vãi ra mua chuộc đàn em trong các sắc lính không hề tiếc.

Kiểu hành xử vừa lì lợm, bạt mạng, vừa tỏ ra đàn anh kèm theo tiền bạc đã giúp Năm Vĩnh lấy lòng không ít tên đầu trâu mặt ngựa trong các sắc lính miền Trung và Cao nguyên. Giống như Vĩnh, tất cả những tên này đều mang 2, 3 án truy nã nên đứa nào cũng hung hãn, sẵn sàng lao vào chỗ chết, miễn có tiền.

Một lần, Năm Vĩnh nhận được tin: một số đàn em của y bị quân cảnh túm cổ vì một lý do hết sức vô duyên. Số là vừa trở về sau một cuộc hành quân, Năm Càri, Mầm Điên và một số tên khác thuộc lực lượng Biệt động quân đang xả xui, tổ chức nhậu với Thắng, tay anh chị bên Chiến đoàn Lôi Hổ. Cuộc nhậu được bày ngay tại gốc đa bên rìa thị xã Buôn Ma Thuột.

Thấy lính tráng tác phong bê tha, một toán quân cảnh đi qua đã tạt vào yêu cầu đám này bỏ áo vào quần, gom ống quần vào giày và buộc dây đàng hoàng để giữ tác phong quân kỷ. Câu trả lời là một tiếng lựu đạn nổ đoành, rơi ra từ tay Thắng “Lôi Hổ”, lúc này đang say lử đử. Thế là, không nói gì thêm, toán quân cảnh vào tước vũ khí, còng tay luôn cả bọn.

Nhận tin, Năm Vĩnh tức khắc gặp viên trung úy, đồn trưởng, bảo: “Sáng mai, tụi Năm Càri không về thì cứ thấy thằng quân cảnh nào trên đường, coi như thằng đó hết số”. Vĩnh sai đàn em đi báo tin cho đám tay chân trong các đơn vị đồn trú lân cận để chuẩn bị.

Quả nhiên, 4 giờ sáng hôm sau, đang ngủ vùi sau cơn say, Năm Vĩnh đã bất ngờ bị quân cảnh ập vào còng tay đưa đi. 7 giờ sáng, đồn quân cảnh bị nhiều loại quần áo rằn ri vây chặt, có cả đại liên M60 tham gia. 7 giờ 15 phút, một trái M79 nổ tung giữa cột cờ trong sân của đồn quân cảnh. Không còn cách nào khác, viên trung úy đành phải thả Năm Vĩnh và đến 16 giờ thì Năm Càri, Mầm Điên, Thắng “Lôi Hổ” cùng ra khỏi trại.

Sau vụ đó, Năm Vĩnh cũng biết là sự lộng hành của y đã vượt quá giới hạn. Bỏ cuộc hành quân của đơn vị, hắn chuồn lên suối Đốc Học nằm khan, sau đó dông tuốt về Nha Trang sống phè phỡn bằng nghề tuồn thuốc phiện vào quân lao Khánh Hòa bán cho đám quân phạm.

Cuối năm 1973, bị lùng sục, hắn lại giết chết một quân cảnh và bị dẫn vào quân lao Khánh Hòa. Trong tù, cảnh gây bè, kết đảng, đâm chém thanh toán nhau lại tiếp diễn, cuối cùng Năm Vĩnh được thừa nhận là một “đại ca trong các đại ca” của cái quân lao khét tiếng vô kỷ luật và lắm đầu trâu mặt ngựa này.

Sau tết Nguyên đán năm 1975, quân lao Khánh Hòa nhận thêm một tù nhân dáng dấp mô phạm, đó là thầy giáo Dương, dạy ở Trường Bồ Đề, Quảng Ngãi. Chuyển lên dạy học ở Đà Lạt, thầy giáo Dương bị “tình nghi Việt Cộng”.

Để dằn mặt người tù mới, chúng đẩy ông giáo vào chung buồng giam với tên hùm xám Năm Vĩnh, dự định mượn tay tên hung thần để hành hạ người tù. Đã từng nghe tiếng tên hung thần, ông Dương co rúm mình và suýt ngất xỉu khi những tên tù tàn bạo dựng ông ngồi thẳng lưng, bắt phải chứng kiến cảnh Năm Vĩnh và một tên đàn em tra tấn cho đến chết một quân phạm chung buồng.

Xong cảnh dã man đó, con “hùm xám” thét đàn em kê nệm, đón thầy mình lên chiếu trên nằm nghỉ, cơm bưng nước rót hầu hạ đến tận chỗ nằm. Khi đã trấn tĩnh, ông Dương mới dám hỏi Vĩnh: “Anh là người còn biết giữ chút lễ nghĩa, sao hôm trước vô cớ lại đánh người ta đến chết?”. Triết lý tàn bạo của lối sống giang hồ được gã học trò quỷ dữ trả lời sau một giọng cười buồn: “Người này sống thì kẻ kia phải chết, tại số thằng đó... xui thầy ạ!”.

Nhưng, Năm Vĩnh đã không còn cơ hội để sống tiếp với cái triết lý thú vật của đám giang hồ.

Gần giữa tháng 3/1975, xe tăng quân Giải phóng ầm ầm tiến vào làm chủ Nha Trang. Lợi dụng thời cơ, đám quân phạm đã bạo động giết lính canh, phá quân lao trốn chạy. Bị Năm Vĩnh ép, ông Dương phải theo chân những tên tù sổng khám chạy về hướng Phan Rang.

Nhưng, cầu Du Long đã sập, những tên lính mặc áo tù lại lôi ông chạy ngược trở lại quân cảng Cam Ranh. Trên đường đi, ông giáo đã đau đớn và bất lực chứng kiến cảnh tên học trò và đám đàn em của hắn mặc sức cướp, hành hạ những người chạy loạn khốn khổ mà không cách nào ngăn lại được.

Đến Cam Ranh, Vĩnh và đám đàn em lại dùng súng, lựu đạn uy hiếp và cướp được một chiếc tàu, kèm theo ông Dương tiến thẳng ra khơi. Trên tàu, chúng lại tiếp tục giết người cướp của, dồn vàng, đôla vào 2 balô chặt cứng. Trên tàu toàn kẻ cướp nên tàu bị từ chối không cho cặp cảng Vũng Tàu. Năm Vĩnh lại ra lệnh đưa tàu ra khơi. Đến đảo Phú Quốc, hắn sai đàn em kết ván và dây thừng thành chiếc mảng và bảo ông Dương: “Thầy bơi vào đó chắc sẽ có cách về được đất liền, tìm vợ con. Còn tụi con, tội lỗi quá dày, không dám theo thầy cùng về được”.

Từ chối số tiền, vàng Vĩnh cho, ông Dương nhảy xuống bơi vào bờ. Đến chiều, ông bất ngờ gặp lại gã học trò trên đảo. Quá lộng hành, đám cướp làm loạn đã bị quân cảnh đảo Phú Quốc khống chế và bắt cả nhóm trong đó có Năm Vĩnh.

Phiên tòa quân sự được tổ chức ngay và chỉ kéo dài dăm phút với án tử hình dành cho cả đám. Trước lúc xuống tàu về lại đất liền, ông Dương đã tận mắt chứng kiến cảnh Năm Vĩnh bị bắn ngay sau phán quyết của tòa.

Xác hắn được chôn dưới chân núi Tượng ở thị trấn Phú Quốc. Không mộ chí, nấm mồ dần bị cỏ vùi lấp. Âu đó cũng là đoạn kết tất yếu của con đường giang hồ đầy tội ác của Năm Vĩnh

(Còn tiếp)

Nguyễn Phong Hòa (Tham khảo tư liệu của Cục CSĐT tội phạm về trật tự xã hội)
.
.
.