Những dự án sản xuất máy bay của Liên Xô chỉ dừng ở giai đoạn thử nghiệm
MiG-105.11
Trong những năm Chiến tranh Lạnh, cả Mỹ và Liên Xô đã chế tạo những máy bay vũ trụ, trong tương lai có thể được sử dụng làm máy bay ném bom quỹ đạo. Trong khi Mỹ chế tạo ra chiếc máy bay thí nghiệm X-20 DynaSoar thì Liên Xô đã tạo ra chiếc máy bay thí nghiệm MiG-105.11 có tên là "Lapot" hay “giày sợi” do hình dáng phần mũi của nó.
M50. |
Các chuyên gia đã có ý định sử dụng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa R-7 để đưa chiếc máy bay này lên quỹ đạo, nhưng điều này đã không xảy ra. Vào cuối những năm 1970, nguyên mẫu đã được thử nghiệm ở tốc độ cận âm: nó đã được một chiếc máy bay ném bom Tu-95 (được thiết kế đặc biệt cho dự án này) mang theo dưới bụng rồi thả ra từ độ cao lớn. Nguyên mẫu cận âm bay với tốc độ lên đến 800 km/giờ, trọng lượng 3 tấn rưỡi, có một phi công.
Đã có một số phương án lựa chọn: máy bay trinh sát, máy bay tiêu diệt tàu sân bay bằng tên lửa với đầu đạn hạt nhân, máy bay đánh chặn các mục tiêu trên không. Tuy nhiên, quá trình thử nghiệm đã kết thúc sau một tai nạn nghiêm trọng vào ngày 13-9-1978, phi cơ quỹ đạo đã bị hư hại nặng khi hạ cánh. Sau đó dự án đã chấm dứt hoạt động do chi phí quá cao. Nguyên mẫu MiG-105.11 đang được lưu trữ tại Bảo tàng Hàng không ở Monino gần Moscow.
M-50
Để đáp trả chương trình của Mỹ phát triển máy bay ném bom siêu âm XB-70 Valkyrie, Cục Thiết kế Myasishchev của Liên Xô đã bắt đầu thiết kế máy bay của lớp này vào năm 1956. Kết quả là đã xuất hiện nguyên mẫu với cánh tam giác và thân máy bay có tiết diện tối thiểu. Máy bay được trang bị bốn động cơ (hai động cơ được đặt dưới cánh và hai động cơ ở hai đầu). Tầm bay xa tối đa của M-50 theo dự án đạt 14-15 nghìn km, tốc độ lên tới 1.900-2.000 km /giờ.
M-50 cất cánh vào ngày 27-10-1959. Trong một năm, chiếc máy bay đã thực hiện 11 chuyến bay thử nghiệm, nhưng tốc độ không vượt quá 1.090 km/ giờ. Các chuyên gia đã thấy rõ rằng, với 4 động cơ này, nó không thể vượt qua rào cản âm thanh. Các động cơ đã được thay thế, nhưng vẫn không thể đạt được tốc độ siêu thanh.
Năm 1961, dự án M-50 bị Chính phủ Liên Xô hủy bỏ vì đặc điểm thiết kế không phù hợp với thực tiễn và Liên Xô quyết định tập trung vào phát triển tên lửa đạn đạo và chương trình chinh phục không gian. Mỹ đã hủy bỏ chương trình XB-70 vì lý do tương tự.
Mi-12
Liên Xô đã lập kỷ lục đến nay chưa ai phá vỡ, đó là mẫu trực thăng lớn nhất và nặng nhất từng được chế tạo. Đây là trực thăng vận tải Mi-12, nó đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 10-7-1968. Chiếc trực thăng siêu nặng có sức chứa hơn 30 tấn, có khả năng vận chuyển các bộ phận của tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cho lực lượng tên lửa chiến lược. Đặc điểm của trực thăng này là kiểu cánh quạt nâng kép đặt hai bên trái-phải được điều khiển bởi bốn động cơ D-25VF.
Mi-12. |
Tổ lái từ 6 đến 10 người, sức chứa 196 hành khách. Trọng lượng rỗng của Mi-12 tới 69 tấn. Chiếc trực thăng tăng tốc lên 260 km /giờ và có thể lên độ cao 3.500 mét. Mi-12 đã ra mắt công chúng vào năm 1971 tại Paris Air Show Le Bourget và đã gây ấn tượng mạnh với phái đoàn Mỹ. Hiệp hội Trực thăng Mỹ đã trao cho Cục thiết kế Mil "Giải thưởng I. Sikorsky" vì những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực chế tạo máy bay trực thăng.
Có 2 nguyên mẫu của Mi-12 đã được chế tạo. Tuy nhiên, Mi-12 đã không được sản xuất hàng loạt. Lý do là quân đội không còn nhu cầu về loại máy bay trực thăng nặng như vậy bởi vì khi đó đã xuất hiện các tên lửa chiến lược nhẹ và hiệu quả trên các bệ phóng di động. Các máy bay trực thăng thuộc lớp nhẹ hơn đã đáp ứng tất cả các nhu cầu của lực lượng vũ trang. Nguyên mẫu đầu tiên được đặt tại Nhà máy Trực thăng Moscow và chiếc thứ hai được chuyển đến Bảo tàng Không quân ở Monino.
VVA-14
Ngày 4-9-1972, một chiếc máy bay thí nghiệm đã cất cánh, máy bay này đã kết hợp các chức năng của thủy phi cơ, máy bay ném bom và máy bay ném ngư lôi. VVA-14 là loại máy bay do kỹ sư Liên Xô gốc Ý Robert Bartini thiết kế. Đây là thủy phi cơ cất cánh thẳng đứng, được cho là có thể cất cánh và hạ cánh trên mặt nước như một máy bay thông thường cũng như một máy bay cất cánh và hạ cánh thẳng đứng.
VVA-14. |
Theo kế hoạch ban đầu, VVA-14 phải vào thành phần của tổ hợp không quân chống tàu ngầm, bao gồm một chiếc máy bay, hệ thống để ngắm và phát hiện mục tiêu Burevestnik, vũ khí chống tàu ngầm và hệ thống tiếp nhiên liệu. Tổ hợp này được thiết kế để phát hiện và tiêu diệt các tàu ngầm của đối phương ở khu vực cách xa nơi cất cánh 1.200-1.500km, cả độc lập cũng như với sự yểm trợ của các phương tiện khác của Hải quân.
Do những khó khăn với động cơ cất cánh thẳng đứng, Liên Xô chỉ chế tạo một nguyên mẫu có thể biến máy bay thành ekranoplan. Thiết bị này đã được thử nghiệm tại Vịnh Taganrog của Biển Azov vào năm 1976.
Mặc dù theo bản thiết kế, máy bay phải có khả năng cất cánh thẳng đứng, nhưng, Cục Thiết kế kỹ thuật Rybinsk vẫn không hoàn thành việc phát triển các động cơ nâng RD36-35PR. Nguyên mẫu VVA-14 duy nhất có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Không quân ở Monino.
MiG-1.44
Năm 1983, Cục Thiết kế Mikoyan đã bắt đầu thực hiện "Chương trình mục tiêu toàn diện" phát triển máy bay tiêm kích, động cơ, hệ thống điện tử và vũ khí, cũng như sự phân công chiến thuật và kỹ thuật của lực lượng Không quân và Phòng không. Năm 1987, dự án này đã được phê duyệt.
MiG-105.11. |
MiG-1.44. |
Năm 1991 đã có thiết kế phác thảo của máy bay với mã số MFI là máy bay chiến đấu tiền tuyến đa chức năng. Theo dự án, máy bay này có thể đạt tốc độ lên tới 3.210 km/ giờ, lên độ cao 20.000 mét, tầm bay xa ít nhất 4.000 km. Chiếc máy bay siêu cơ động, với kỹ thuật tàng hình, siêu thanh, không cần thêm quy trình đốt sau.
Tuy nhiên, dự án này đã bị dừng lại vào năm 1991 sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng. Song, nguyên mẫu đã cất cánh vào ngày 29-2-2000. Nhưng dự án sản xuất Su-57 được phê duyệt năm 2002 đã khiến dự án MFI phải kết thúc. Nguyên mẫu duy nhất được lưu trữ trong Viện Nghiên cứu hàng không mang tên Gromov ở thành phố Zhukovsky gần Moscow.