Hé lộ bí mật về chiến thuật phóng tên lửa từ tàu ngầm

Thứ Hai, 28/09/2020, 09:52
Ngày 10-9-1960, Hải quân Liên Xô đã phóng thành công tên lửa từ dưới mặt nước. Kể từ đó, tên lửa trở nên "thông minh" hơn, mạnh mẽ hơn và bay xa hơn nhiều, nhưng chiến thuật phóng tên lửa từ tàu ngầm vẫn không thay đổi.


Tư thế sẵn sàng chiến đấu

Các tàu ngầm tuần dương hiện đại có thể phóng một quả tên lửa hoặc loạt tên lửa cả từ mặt nước và từ dưới mặt nước. Việc phóng tên lửa từ dưới mặt nước được coi là một trong những bài tập phức tạp nhất trong quá trình huấn luyện chiến đấu.

Ban đầu, tên lửa đạn đạo chỉ được trang bị cho tàu ngầm diesel-điện, - cựu thuyền trưởng tàu ngầm hạt nhân, Thuyền trưởng hạng Nhất Igor Kurdin giải thích với Sputnik. Để bắn, tàu ngầm đã phải nổi lên - tên lửa được đưa lên bệ phóng gần hàng rào cabin và chỉ sau đó được phóng. Đương nhiên, sau khi nổi lên mặt nước, tàu ngầm mất đi lợi thế chính - khả năng tàng hình.

Tàu ngầm hạt nhân K-433 dự án 667BDR “Kalmar”.

Hạm đội đã có nhu cầu về các loại tên lửa có thể được phóng từ dưới mặt nước. Các nhà thiết kế đã phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi chế tạo loại vũ khí mới này, bởi vì vào lúc phóng tên lửa tàu ngầm vẫn tiếp tục di chuyển. Tốc độ di chuyển nhỏ, nhưng vẫn đủ để hình thành dòng nước mạnh "gây ức chế” cho tên lửa.

Vào giữa những năm 1950, nhà thiết kế Sergey Korolyov, khi đó ông đã phát triển tên lửa cho lực lượng hải quân, tìm cách giải quyết vấn đề này. Ông đề nghị lắp thêm một bánh lái "khí" ở phía dưới tên lửa đạn đạo. Một tấm thép có kích thước 40 x 50 cm, đặt ở góc 15 độ, làm lệch luồng phản lực, bù đắp lại "áp lực dòng nước" vào tên lửa. Sau khi nhận được lệnh và tọa độ của mục tiêu, tàu ngầm hạt nhân trong tư thế sẵn sàng chiến đấu bắt đầu chuẩn bị phóng tên lửa.

Đường đi, tốc độ và độ sâu vẫn không thay đổi, Tàu ngầm không thể thay đổi hướng đi, không thể giảm hoặc tăng tốc độ ngay cả khi bị tấn công. Tất nhiên, vào thời điểm này chiếc tàu ngầm dễ bị tổn thương nhất. Nhưng, điều quan trọng nhất đối với thủy thủ đoàn là hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả và phóng hết cơ số tên lửa.

Chọc thủng lớp băng dày

Điều kiện phức tạp nhất là ở vùng Bắc Cực, ở đó những rủi ro, nguy hiểm có thể xảy ra trong mỗi chuyến đi của tàu ngầm. Ông Kurdin giải thích thêm rằng, các tàu ngầm hạt nhân không phóng tên lửa từ dưới lớp băng. Trong mọi trường hợp, tàu phải nổi lên để phóng tên lửa. Có hai phương án nổi lên mặt nước: tĩnh và động. Trong trường hợp đầu tiên, con tàu từ từ nổi lên đến lỗ nước trên băng đã được tìm thấy trước đó.

Nhưng, trên mặt nước vẫn có lớp băng nhỏ, có một số trường hợp khi lớp băng chặn nắp ống phóng. Trong quá trình nổi lên “động”, tàu ngầm di chuyển với tốc độ không quá 5 hải lý/giờ và chọc thủng lớp băng. Nhưng phương án này ít được sử dụng bởi vì độ bền kết cấu phần thân vỏ thép bị hạn chế, và nếu tàu ngầm nổi lên và phá vỡ lớp băng độ dài 5 mét bằng thân tàu, nó có thể bị hư hại.
Quân đội Nga phóng tên lửa đạn đạo Bulava và Sineva từ tàu ngầm Dolgoruky và Tula.

Trước đây, các chuyên gia đã nghiên cứu phương án tạo ra một lỗ trên băng bằng cách phóng các tên lửa với đầu đạn có sức công phá lớn. Chiếc tàu ngầm phóng bốn quả tên lửa phát nổ cùng lúc ở một khoảng cách nhất định từ lớp băng để tàu có thể đi qua.

Các cuộc thử nghiệm cho thấy rằng, các vụ nổ đã phá vỡ lớp băng, nhưng, những mảnh vỡ lớn của băng là mối nguy hiểm không kém gì băng biển dày ít nhất 3 mét. Hầu như không thể phóng tên lửa qua một cái lỗ như vậy. Đã có một lần khi quả ngư lôi mất định hướng và quay về phía tàu ngầm, các thủy thủ phải né vũ khí của chính mình. Cuối cùng, phương án này đã bị hủy bỏ.

Hiệu quả của việc bắn phần lớn phụ thuộc vào các nhà điều hướng: họ phải xác định chính xác vị trí của tàu ngầm trước khi phóng để tên lửa bắn trúng mục tiêu. Để bù lại sai sót, các tên lửa hiện đại được trang bị hệ thống tự động sửa lỗi.  Sau khi phóng tên lửa, thủy thủ đoàn chỉ có thể sử dụng các ngư lôi, và tàu ngầm nhắm vào các tàu chiến hoặc nhóm tấn công của tàu sân bay. Tuy nhiên, ông Kurdin thừa nhận rằng, nếu tàu ngầm phóng hết cơ số tên lửa, hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương sẽ xác định ngay vị trí của nó và rất có thể chiếc tàu ngầm sẽ bị tiêu diệt.

Nỗi ám ảnh từ dưới lòng biển sâu

Ngày 10-9-1960, cuộc thử nghiệm đã thành công. Tên lửa được phóng từ chiếc tàu ngầm đang di chuyển ở độ sâu 30 mét với tốc độ 3,2 hải lý/giờ. Tên lửa đầu tiên của Liên Xô được phóng từ dưới lòng biển này là R-21, tên lửa này đã được trang bị cho quân đội vào năm 1963. R-21 với tầm bắn xa 1.300 - 1.600 km có thể mang đầu đạn có sức công phá từ 800 Kt (kiloton) đến 1 Mt (megaton). Tuy nhiên, R-21 thua kém về tầm bắn các tên lửa Polaris của Mỹ (có tầm bắn 2.200-2.800 km).

Tàu ngầm hạt nhân "Vladimir Monomakh".

Do đó, sau vài năm, Liên Xô đã thử nghiệm tên lửa R-27 có khả năng mang đầu đạn hạt nhân với sức công phá 1 megaton ở khoảng cách lên tới 3.000 km. Tên lửa này được phóng theo phương pháp được gọi là “xuất phát trong điều kiện ẩm ướt”. Để chuẩn bị cho việc phóng cần phải đổ nước vào miệng hầm, áp lực được cân bằng với bên ngoài, sau đó phải mở nắp và bật động cơ.

Nhưng việc đổ nước tạo ra tiếng ồn, và tàu chống ngầm của đối phương có thể nhanh chóng phát hiện và tiêu diệt tàu ngầm. Vì vậy, trên tàu ngầm nên bố trí các tên lửa đẩy nhiên liệu rắn. Chúng được đẩy từ miệng hầm bằng thuốc nổ và động cơ chính được bật ở trên mặt nước. Phương pháp này nhanh hơn và không gây tiếng ồn. Các loại tên lửa SLBM nhiên liệu rắn là R-31, R-39 của Liên Xô, cũng như tên lửa Bulava của Nga.

Ngày nay, trên các tàu ngầm hạt nhân của Hải quân Nga có một số loại tên lửa đạn đạo. Đầu tiên là tên lửa hai tầng R-29R sử dụng nhiên liệu lỏng, được trang bị chiếc tàu ngầm cuối cùng thuộc dự án Kalmar vẫn còn phục vụ. Tổ hợp này đã được trang bị cho các tàu ngầm hạt nhân thuộc Dự án 667 (667BDR "Kalmar").

So với các phiên bản tiền nhiệm của nó, độ chính xác của R-29R đã tăng gấp đôi và hiệu quả chiến đấu tăng gấp ba lần. Mỗi tên lửa loại này có thể mang 3 đầu đạn 200 Kt, với phạm vi phóng 6.500 km. Hầu hết các tàu ngầm mang vũ khí này đều đã ngừng hoạt động, trong Hải quân Nga chỉ còn lại một chiếc tàu lớp Kalmar - tàu ngầm hạt nhân Ryazan.

Thứ hai là tên lửa ba tầng R-29RM sử dụng nhiên liệu lỏng. Tên lửa này được trang bị cho các tàu ngầm thuộc dự án 667BDRM Dolphin. Hạm đội có sáu tuần dương ngầm chiến lược như vậy, mỗi tàu ngầm mang theo 16 "điếu xì gà" hạt nhân có tầm phóng hơn 11.500 km. Phiên bản sửa đổi mới nhất của tên lửa này - "Sineva" – có tầm bay hơn 11.550 km và mang theo 4 hoặc 10 đầu đạn với sức tàn phá 500 hoặc 100 Kt, và có khả năng “vượt mặt” các hệ thống phòng thủ tên lửa của đối phương.

Tên lửa Bulava được trang bị cho các tàu ngầm thuộc dự án Borey và dự án 941 (tàu ngầm hạng nặng Dmitry Donskoy).

Thứ ba, tên lửa hiện đại nhất Bulava sử dụng nhiên liệu rắn. Bulava được trang bị cho các tàu ngầm thuộc dự án Borey và dự án 941 (tàu ngầm hạng nặng Dmitry Donskoy).  Một quả tên lửa Bulava nặng 36 tấn có thể mang theo 10 đầu đạn hạt nhân với đương lượng nổ 100-150 kT/đầu đạn và có khả năng vượt qua hơn 9.000 km.

Độ lệch mục tiêu của tên lửa này chỉ vào khoảng 350m. Ngoài ra, giai đoạn tăng tốc của Bulava là rất ngắn (mà chính ở giai đoạn này tên lửa dễ bị tổn thương nhất bằng các hệ thống phòng thủ tên lửa) và có tính cơ động cao để bảo vệ khỏi các máy bay đánh chặn được thiết kế cho quỹ đạo đạn đạo thông thường.

Minh Trang (Theo Sputnik)
.
.
.