Công nghiệp vũ khí
Kỳ 1: Chi tiêu quân sự tăng trở lại
Sau thời gian sụt giảm (từ 2012-2014) do các cuộc khủng hoảng về tài chính, kinh tế, nợ công, suy thoái… chi tiêu quân sự toàn thế giới đã tăng trở lại 2 năm liên tiếp 2015 và 2016. Ðiều này phản ánh một thế giới đang bất an hơn.
Gần 1.700 tỷ USD
Trước đó, bất chấp các cuộc khủng hoảng về tài chính, kinh tế, nợ công, suy thoái…, chi tiêu quân sự đã gia tăng liên tục trong giai đoạn 1998-2010 với mức tăng bình quân hằng năm 4,5% trong thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới. Tuy nhiên, trong 3 năm từ 2012-2014, chi tiêu quân sự đã sụt giảm đôi chút do các nước thực sự “ngấm đòn” từ các cuộc khủng hoảng.
Nhưng đà tăng chi tiêu quân sự đã hồi phục trong 2 năm gần đây. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), tổng chi tiêu quân sự thế giới năm 2016 tăng 0,4%, đạt 1.686 tỷ USD. Đây là năm thứ 2 liên tiếp chi tiêu quân sự thế giới tăng, kể từ năm 2011 khi chi tiêu quân sự chạm đỉnh 1.699 tỷ USD.
Mỹ vẫn là quốc gia có chi tiêu quân sự hàng năm cao nhất thế giới. Chi tiêu quân sự của Mỹ tăng 1,7% trong thời gian từ năm 2015-2016 lên tới 611 tỷ USD. Chi tiêu quân sự của Trung Quốc, nước đứng thứ nhì năm 2016, tăng 5,4% lên 215 tỷ USD, mức tăng trưởng thấp hơn nhiều so với những năm trước. Nga tăng chi tiêu 5,9% trong năm 2016 lên 69,2 tỷ USD, làm cho nước này trở thành nước chi tiêu lớn thứ ba.
Ảrập Xêút là nước có mức chi tiêu quân sự lớn thứ 3 vào năm 2015 nhưng đã giảm xuống vị trí thứ tư vào năm 2016. Mức chi tiêu của Saudi Arabia giảm 30% trong năm 2016 xuống còn 63,7 tỷ USD, mặc dù vẫn tiếp tục tham gia vào các cuộc chiến tranh khu vực. Chi tiêu quân sự của Ấn Độ tăng 8,5% trong năm 2016 lên 55,9 tỷ USD, làm cho nước này trở thành nước chi tiêu lớn thứ 5.
Sự gia tăng chi tiêu quân sự của Mỹ vào năm 2016 có thể báo hiệu sự kết thúc của một xu hướng giảm chi tiêu, là kết quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và việc rút quân Mỹ khỏi Afghanistan và Iraq.
Theo ông Aude Fleurant, Giám đốc Chi nhánh Quân sự và Chi tiêu quân sự của SIPRI, chi tiêu của Mỹ vào năm 2016 vẫn thấp hơn 20% so với mức cao nhất trong năm 2010. Mặc dù có những hạn chế về mặt pháp lý đối với tổng ngân sách Mỹ (AMEX). Các mô hình chi tiêu trong tương lai vẫn không chắc chắn do tình hình chính trị đang thay đổi ở Mỹ.
Chi tiêu quân sự ở Tây Âu tăng lên năm thứ hai liên tiếp và tăng 2,6% vào năm 2016. Có sự gia tăng về chi tiêu trong tất cả trừ 3 nước ở Tây Âu. Ý ghi nhận sự gia tăng đáng chú ý nhất, với chi tiêu tăng lên 11% từ năm 2015-2016. Các quốc gia có mức gia tăng quân sự tương đối lớn từ 2015-2016 ở Trung Âu. Theo ông Siemon Wezeman, nghiên cứu viên cao cấp của chương trình SIPRI AMEX, chi tiêu chung ở Trung Âu tăng 2,4% năm 2016. "Sự tăng trưởng trong chi tiêu của nhiều quốc gia ở Trung Âu có thể một phần do nhận thức rằng Nga là mối đe dọa lớn hơn" .
Tập đoàn Oshkosh đã tăng 156% doanh số bán vũ khí trong năm 2010 sau khi giành được hợp đồng M-ATV. |
Tiến sĩ Nan Tian, nhà nghiên cứu thuộc Chương trình SIPRI AMEX, cho biết doanh thu từ dầu mỏ và các vấn đề kinh tế liên quan đến cú sốc giá dầu đã buộc nhiều quốc gia xuất khẩu dầu phải giảm chi tiêu cho quân đội. Ví dụ, từ năm 2015 đến 2016 Saudi Arabia có mức giảm tuyệt đối lớn nhất trong chi tiêu 25,8 tỷ đô la.
Các khoản cắt giảm lớn nhất trong chi tiêu quân sự năm 2016 liên quan đến doanh thu dầu mỏ quốc gia giảm là ở Venezuela (-56%), Nam Sudan (-54%), Azerbaijan (-36%), Iraq (-36%) và Saudi Arabia (-30%). Một số nước khác đáng chú ý là Angola, Ecuador, Kazakhstan, Mexico, Oman và Peru. Chỉ có 2 trong số 15 quốc gia có mức chi tiêu lớn nhất vào năm 2016 không phải là các nhà xuất khẩu dầu. Tuy nhiên, một số nước xuất khẩu dầu như Algeria, Iran, Kuwait và Na Uy được trang bị tốt hơn về mặt kinh tế để đối phó với các cú sốc giá dầu và có thể tiếp tục với kế hoạch chi tiêu hiện tại của họ vào năm 2016.
Chiếm 2,2% tổng GDP toàn cầu
Theo số liệu của SIPRI, chi tiêu quân sự thế giới trong năm 2016 chiếm 2,2% GDP toàn cầu. Chi tiêu quân sự là một phần của GDP, cao nhất ở Trung Đông (đối với các quốc gia có dữ liệu), với mức trung bình là 6% GDP vào năm 2016, trong khi mức thấp nhất là ở châu Mỹ, với mức trung bình là 1,3% GDP.
Chi tiêu ở châu Phi giảm 1,3% vào năm 2016, năm giảm thứ hai giảm sau 11 năm liên tiếp tăng. Điều này chủ yếu là do cắt giảm chi tiêu ở các quốc gia xuất khẩu dầu ở tiểu vùng Sahara châu Phi (ví dụ Angola và Nam Sudan). Ở châu Á và châu Đại Dương, chi tiêu quân sự tăng lên 4,6% vào năm 2016. Mức chi tiêu liên quan đến nhiều căng thẳng trong khu vực như quyền lãnh thổ ở Biển Đông.
Chi tiêu quân sự ở Trung Mỹ, Caribê và Nam Mỹ giảm 7,8% xuống mức chưa từng thấy kể từ năm 2007. Sự sụt giảm phần lớn được giải thích là do cắt giảm chi tiêu của các nước xuất khẩu dầu như Ecuador, Mexico, Peru và Venezuela. Chi tiêu của Brazil tiếp tục giảm do khủng hoảng kinh tế ngày càng tồi tệ.
Không có ước tính cho Trung Đông vì dữ liệu không khả dụng đối với một số nước nhập khẩu chủ chốt như Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất. Đối với các quốc gia có dữ liệu, Iran và Kuwait có mức tăng đáng kể, trong khi ở Iraq và Ảrập Xêút giảm đáng kể.
Chi tiêu quân sự tăng kéo theo người bạn đồng hành kinh doanh vũ khí đi lên. Doanh thu buôn bán vũ khí và các dịch vụ quân sự của 100 tập đoàn vũ khí lớn nhất đã đạt tới 411,1 tỷ USD trong năm 2010 và doanh thu tính theo giá trị thực đã tăng vọt 60% trong giai đoạn 2002-2010.
Các tập đoàn quân sự Bắc Mỹ và Tây Âu lại một lần nữa thống trị danh sách, trong đó, 44 công ty có trụ sở tại Mỹ chiếm hơn 60% doanh thu và 30 công ty có trụ sở tại Tây Âu chiếm hơn 29%. Qua Top 100, chúng ta có thể thấy sự tập trung hóa cao độ trong ngành công nghiệp vũ khí toàn cầu, với 56% tổng doanh thu (230 tỷ USD) nằm trong tay 10 tập đoàn lớn nhất.
Những gã khổng lồ ngành công nghiệp vũ khí đã chứng tỏ khả năng xoay xở cực giỏi để làm ăn phát đạt bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính hiện đang ảnh hưởng đến các ngành công nghiệp khác. Lấy ví dụ, Tập đoàn Oshkosh đã tăng 156% doanh số bán vũ khí trong năm 2010 sau khi giành được hợp đồng M-ATV.