Nhận diện quan hệ kinh tế Mỹ - ASEAN qua những từ khóa

Thứ Năm, 25/12/2025, 21:10

Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là khu vực kinh tế lớn thứ 5 thế giới, với dân số ước tính khoảng gần 700 triệu người vào năm 2025 và GDP tổng thể dự báo vượt 4.000 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào ASEAN lên tới khoảng 532 tỷ USD năm 2024, chủ yếu thông qua Singapore.

Nói về mối quan hệ đặc biệt này, thời gian gần đây truyền thông liên tục nhắc tới những cụm từ như “đối ứng”, “có đi có lại”, cho thấy đằng sau bức tranh hợp tác rộng mở là các biến động phản ánh sự điều chỉnh trong ưu tiên chiến lược của Washington và sức ép cạnh tranh địa kinh tế ngày càng gia tăng trong khu vực. Trong một thế giới toàn cầu hóa và đan xen lợi ích như hiện nay, điều người ta mong đợi ở quan hệ Mỹ-ASEAN một cấu trúc hợp tác hài hòa hơn, nơi lợi ích dài hạn được đặt cao hơn các tính toán ngắn hạn.

6-1.jpg -0
Hội nghị cấp cao ASEAN-Mỹ lần thứ 13 tại Kuala Lumpur, Malaysia, tháng 10/2025.

Mỹ “chia nhỏ” bàn đàm phán ASEAN?

Những gì dư luận chú ý tại Hội nghị Cấp cao ASEAN, tổ chức tại Kuala Lumpur (Malaysia) hồi tháng 10/2025 không phải là việc ASEAN chào đón thành viên Timor-Leste gia nhập khối, mà là việc nhà lãnh đạo Mỹ, đối tác then chốt của ASEAN, Tổng thống Mỹ Donald Trump thúc đẩy các thỏa thuận thương mại “có đi có lại” với từng nước thành viên. Giới quan sát chia sẻ nhận định cho rằng các cuộc thảo luận phản ánh thực tế Washington ưu tiên ngoại giao giao dịch với từng quốc gia hơn là một thỏa thuận khu vực chung cho cả khối.

Điều đáng nói là các thỏa thuận song phương đạt được tại Kuala Lumpur thực chất mang lại những kết quả khiêm tốn về thuế quan, trong khi tập trung vào nhiều lĩnh vực khác. Lấy ví dụ, các thỏa thuận của Mỹ với Campuchia, Malaysia... không xoa dịu được mức thuế được gọi là “có đi có lại” của Mỹ, nhiều nhất cũng chỉ là đảm bảo ưu đãi cho từng sản phẩm hoặc lĩnh vực cụ thể. Trong khi đó, “file đính kèm” lại bao gồm một loạt cam kết về các lĩnh vực như trợ cấp thủy sản, thuế kỹ thuật số và hạn chế xuất khẩu. Thỏa thuận của Mỹ với Thái Lan không tập trung vào thương mại, mà tập trung vào sự tham gia của Mỹ trong các chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng.

Trong khi đó, Mỹ ký các bản ghi nhớ thương mại với Malaysia và Campuchia theo hướng 2 nước ASEAN xóa bỏ thuế quan cho nhiều mặt hàng của Mỹ và cam kết gỡ bỏ các rào cản phi thuế quan để đổi lại việc Mỹ duy trì mức thuế 19% đối với hàng hóa nhập khẩu. Cả 2 bản ghi nhớ đều nhấn mạnh việc mở rộng tiếp cận thị trường cho hàng công nghiệp và nông sản Mỹ, đơn giản hóa thủ tục nhập khẩu, công nhận tiêu chuẩn kỹ thuật, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như thương mại số, chuỗi cung ứng, sở hữu trí tuệ và đầu tư.

Việc Mỹ đàm phán với từng thành viên ASEAN và không có cam kết về khuôn khổ chung khiến các nước khu vực cảm thấy khó khăn trong ngoại giao kinh tế. Việc một số quốc gia thẳng thừng khẳng định không có tuyên bố chung về thương mại với Mỹ trong kỳ hội nghị này là bằng chứng cho suy nghĩ đó.

6-2.jpg -0
Mối quan hệ ASEAN - Mỹ chính thức được thiết lập từ năm 1977 và đã trải qua nhiều dấu mốc đáng ghi nhớ.

Đối sách của ASEAN

Tuyên bố Tầm nhìn chung ASEAN-Mỹ (thông qua tại Kuala Lumpur tháng 10/2025) đã nhấn mạnh hợp tác kinh tế “thông qua thương mại và cơ chế khung đầu tư (TIFA) của ASEAN-Mỹ” và đầu tư hai chiều vào các lĩnh vực then chốt như khoáng sản chiến lược, chuỗi cung ứng, kinh tế số, năng lượng và hạ tầng (ví dụ kết nối cơ sở hạ tầng năng lượng, xe điện, kinh tế biển, thành phố thông minh...). Dù có sức ép từ Mỹ với cách tiếp cận ưu tiên đơn phương, ASEAN vẫn giữ nguyên tầm nhìn “một thị trường mở và bao trùm”.

Nhiều nước ASEAN đã lựa chọn không trả đũa mà thương lượng để đạt một số thỏa thuận ngắn hạn. Dù vậy, một số điều khoản trong thỏa thuận Mỹ-ASEAN cũng gây ít nhiều lo ngại. Ví dụ, thỏa thuận Mỹ-Campuchia yêu cầu Phnom Penh không được ký “các thỏa thuận phân biệt đối xử” với nước thứ ba, phải tham vấn Washington trước khi ký bất kỳ hiệp định thương mại số mới và áp dụng chính sách tương tự Mỹ trong các ngành đóng tàu và vận tải. Những cam kết kiểu này - đặc biệt về nước thứ ba - đặt ra câu hỏi lớn về khả năng duy trì cân bằng chiến lược và chính sách thương mại mở của ASEAN.

Một chi tiết đáng chú ý khác là việc ASEAN công khai xây dựng “Lực lượng Đặc nhiệm địa kinh tế” để tăng cường sức mạnh tập thể, củng cố khả năng chống đỡ các áp lực mang tính địa chính trị, tăng cường phối hợp ứng phó căng thẳng thương mại (chẳng hạn như phát sinh từ các đòn thuế quan). Văn phòng nghiên cứu ASEAN+3 (AMRO) từng cảnh báo những biện pháp thuế quan mới của Mỹ sẽ gây gián đoạn đáng kể đối với thương mại toàn cầu và tăng trưởng khu vực năm 2026 thấp hơn dự báo trước đó, song chính chính sách không ổn định của Mỹ lại trở thành “cơ hội để ASEAN+3 thúc đẩy hội nhập nội khối chặt chẽ hơn”.

Nói cách khác, trước áp lực chung, các nền kinh tế ASEAN đang tập trung kết nối nội vùng mạnh mẽ để tăng cường độ bền kinh tế.

Thực tế, việc thảo luận với một khối ASEAN - thống nhất và trên tư cách một đối tác thịnh vượng, thay vì đàm phán với từng thành viên thông qua ngoại giao giao dịch, sẽ mang lại nhiều cơ hội hơn cho Mỹ. Ngay cả trong chương trình nghị sự “Nước Mỹ trước tiên” của Tổng thống Trump, Mỹ vẫn cần ASEAN là một đối tác bình đẳng để hợp tác với các nhà sản xuất và tiếp cận một thị trường tiêu dùng không ngừng mở rộng. Lợi ích lâu dài của việc hợp tác mang tính xây dựng với ASEAN vượt xa bất kỳ lợi ích nào từ việc tìm cách “điều chỉnh” những khoản thặng dư thương mại thường không đáng kể về mặt thống kê với Mỹ.

Các ngành công nghiệp thâm dụng lao động và công nghiệp nhẹ từ lâu đã chuyển sang các trung tâm sản xuất cạnh tranh hơn nước ngoài và khó có thể quay trở lại Mỹ trong tương lai gần. Các nhà sản xuất ASEAN, với lợi thế so sánh lâu dài - từ lao động hiệu quả về chi phí đến chuỗi giá trị khu vực hội nhập sâu rộng - sẽ vẫn là những đối tác không thể thiếu trong ngành sản xuất toàn cầu.

Khơi thông điểm nghẽn cho tương lai hợp tác

Hướng đi gần nhất cho quan hệ kinh tế Mỹ-ASEAN là tiếp tục điều chỉnh phù hợp với thời thế. Mỹ sẽ phải cân bằng giữa nhu cầu bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích thị trường. Nhiều ý kiến cho rằng, Mỹ nên thiết lập một khuôn khổ hợp tác ổn định, dựa trên kinh doanh, chứ không nên chỉ trông chờ các cuộc “đàm phán có đi có lại” rời rạc. Đối với Mỹ, cơ hội lớn nhất nằm ở chỗ họ có thể bảo đảm vị trí “cổ đông” trong sự tăng trưởng của ASEAN, nghĩa là tăng đầu tư và hỗ trợ các dự án chung, thay vì áp đặt các điều kiện địa chính trị.

ASEAN sẽ tiếp tục mở rộng hội nhập, thúc đẩy xây dựng Hiệp định khung kinh tế số ASEAN (DEFA) và theo lộ trình Tầm nhìn 2045 - thể hiện cam kết của ASEAN hướng tới một nền kinh tế số khu vực hội nhập, năng động, với mục tiêu trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới, đặt ra các quy tắc chung cho thương mại số, dữ liệu, thanh toán xuyên biên giới, đồng thời củng cố vị thế số toàn cầu, tận dụng tiềm năng kinh tế số, dựa trên các nền tảng như AI, hạ tầng số và chính sách toàn diện.

Dự báo của AMRO cho thấy tăng trưởng chung của ASEAN sẽ giảm trong năm 2026 do ảnh hưởng của các mức thuế quan mới của Mỹ, song nguồn lực nội địa mạnh mẽ (đặc biệt nguồn cầu tiêu dùng) cùng chiến lược đa dạng hóa đối tác (Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Ấn Độ...) có thể giúp ASEAN giữ vững tốc độ.

Về dài hạn, quan hệ kinh tế Mỹ-ASEAN có thể phát triển theo hướng hài hòa lợi ích, chia sẻ trách nhiệm thúc đẩy tăng trưởng khu vực. ASEAN mong muốn một mối quan hệ thương mại “cân bằng, hài hòa và bền vững” với Mỹ, trong khi Mỹ cần tận dụng tối đa quy mô thị trường và chuỗi giá trị ASEAN. ASEAN có lực lượng lao động trẻ, công nghiệp sản xuất hiệu quả về chi phí và chuỗi giá trị khu vực sâu rộng - những lợi thế mà Mỹ không dễ dàng “đưa trở về” Mỹ... Các lĩnh vực công nghệ cao, kinh tế số và năng lượng đang mở ra vô vàn cơ hội mới. Mỹ hiện là nhà đầu tư công nghệ lớn ở ASEAN (các tập đoàn như Amazon, Google, Microsoft... cam kết hàng chục tỷ USD đầu tư hạ tầng dữ liệu tại khu vực) và việc ASEAN hoàn thiện DEFA cũng sẽ thúc đẩy đáng kể những tiềm năng hợp tác.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán ASEAN có thể giữ mức tăng trưởng khoảng 4,3% mỗi năm trong giai đoạn 2025-2030 và giàu tiềm năng trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào năm 2030.

“Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa, hãy đi cùng nhau”. Câu nói này cũng đúng với mối quan hệ kinh tế giữa Mỹ và ASEAN. Sợi dây liên kết ấy không được quyết định bởi các “đòn đối ứng” nhất thời, mà bởi khả năng hai bên tìm thấy cách cân bằng giữa cạnh tranh và hợp tác. Khi ASEAN củng cố nội lực và Mỹ điều chỉnh kỳ vọng, một cấu trúc kinh tế khu vực ổn định hơn có thể dần hình thành. Và, đó cũng rất có thể sẽ là phép thử, đồng thời là cơ hội cho cả hai bên cùng tiến về phía trước trong một bối cảnh đầy biến số khó lường.

Thái Hân
.
.
.