Nghi lễ của lúa vàng
Và vào những ngày mùa của tháng Mười, tôi đã nhìn thấy những điều như thế. Những điều thật bình dị nhưng thật lộng lẫy. Nó vẫn đi theo cuộc đời tôi như một món quà quá lớn mà tôi là một kẻ diễm phúc được ban tặng.
Đó là những ngày đất đai nồng nàn trong hơi thở của mùa thu. Những ngày đó không mưa bão, không hơi nóng khủng khiếp của mùa hạ. Và có lẽ, đó là những ngày bầu trời rộng lớn hơn bao giờ hết và thẳm xanh vô tận. Trên bầu trời rộng lớn và thẳm xanh kia là những đám mây trắng tinh khiết đến không còn gì tinh khiết hơn, tinh khiết như những linh hồn của những người đã được rửa tội đang bay ở chốn thiên đường.
Tôi đã viết một bài thơ về những đám mây trắng ấy và ví đó là linh hồn của những con bò khi đã cày xong đường cày cuối cùng trên thế gian và được bay lên. Đó là những ngày thế gian ngập tràn một màu vàng của nắng và lúa chín. Đó là những ngày mà những ngọn gió dịu dàng hơn bao giờ hết thổi miên man trên đất đai rộng lớn ướp đầy hương lúa chín.
Bây giờ vẫn hai mùa gặt trong một năm. Nhưng những vẻ đẹp của vụ tháng Mười đã không còn như xưa nữa. Xã hội phát triển và có những điều không còn tồn tại. Tuy có nhiều điều hợp lý, nhưng tôi vẫn mang cảm giác mất đi một cái gì đó làm lòng mình trống vắng và ngơ ngác. Tôi vẫn nhớ những ngày mùa của tháng Mười xưa lúa vàng ngập trên sân phơi và rơm rạ ngập tràn mọi lối đi trong làng quê nhỏ bé và yên bình của tôi. Tất cả đều được ướp trong hương lúa chín. Tôi cứ ngỡ rằng mỗi con người ở chốn thôn quê là một bông lúa của mùa màng đó.
Hiện thực của những ngày mùa thuở trước đã mất đi nhiều nhưng ký ức lại trở về đầy đủ và sống động hơn bao giờ hết. Những ngày mùa ấy, người làng dậy rất sớm để ra đồng cắt lúa. Lũ trẻ chúng tôi cũng dậy sớm. Chúng tôi chạy túa ra cánh đồng trên những bờ ruộng còn đọng đầy sương đêm. Công việc trong những ngày mùa ấy vừa như là công việc lại vừa như một lễ hội của ngũ cốc.
![]() |
Vào những ngày gặt lúa, lũ trẻ chúng tôi suốt ngày ở ngoài đồng. Những đứa lớn thì giúp cha mẹ cắt lúa. Còn những đứa bé hơn thì đi bắt châu chấu, bắt cua và săn chuột đồng. Vào mùa gặp tháng Mười, châu chấu béo vô cùng. Những con châu chấu cái với cái bụng trứng căng tròn, vàng ươm bay rào rào trên ruộng lúa. Từng hàng lúa bị cắt dồn bầy châu chấu vào phần lúa cuối cùng còn lại ở góc ruộng. Lũ trẻ đứng ở đó để đón bắt châu chấu và những con chuột đồng.
Tôi vẫn còn cảm thấy hơi gió từ đôi cánh của những con châu chấu bay qua mặt quạt vào và những chiếc gai dọc hai chân sau của những con châu chấu khứa vào da thịt. Khi thửa ruộng đã cắt hết lúa, lũ chuột đồng không còn nơi trú chạy hoảng loạn và tìm cách chui vào những gồi rạ. Tiếng hò hét của lũ trẻ vang trên cánh đồng. Khi những cái vỏ chai đã đựng đầy châu chấu và khi không còn con chuột đồng nào nữa thì lũ trẻ rủ nhau đi móc cua. Sang tháng Mười, cua bắt đầu đào mà để ngủ đông. Chúng phải tích nhiều dinh dưỡng nhất để duy trì sự sống trong suốt mùa đông khắc nghiệt. Vì vậy mà cua tháng Mười là cua ngon nhất.
Bữa tối của những ngày mùa bao giờ cũng muộn. Cả nhà ngồi trên sân ăn cơm tối trong ánh sáng của những ngọn đèn dầu. Xung quanh ngập tràn những lượm lúa chuyển từ đồng về để ăn tối xong thì đập lúa. Ngày ấy, ở các làng quê chưa có máy tuốt lúa như bây giờ. Người ta dùng cối đá để đập lúa. Đó là những chiếc cối đá nặng chừng một tạ được đục từ một khối đá xanh. Phần đáy của nhiều chiếc cối đá có một lỗ thủng tròn. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ người đục cối đá đã đục cái lỗ thủng ấy. Nhưng sau này mẹ tôi nói cho tôi biết đó là do người ta đập lúa làm đáy cối mòn dần và tạo thành cái lỗ.
Những chiếc cối đá như vậy có tuổi đến hàng trăm năm. Như vậy, những lượm lúa đã đập vào đó có lẽ hàng trăm năm mới làm cho đáy cối mòn thành một lỗ thủng lớn. Không phải nhà nào trong làng cũng có cối đá đập lúa. Vì vậy, nhà này đập lúa xong thì nhà khác đến mượn cối. Mượn cối nhưng lạ thay chẳng ai khiêng cối về nhà mình mà là lăn cối. Người mượn cối cứ lăn chiếc cối đá nặng dọc đường làng về nhà mình.
Những đêm đập lúa lúc nào cũng là những đêm lũ trẻ được chơi đùa cho đến khi người lớn đã đập xong một đống lúa to như một quả đồi. Mà thường đến hai ba giờ sáng công việc mới tạm xong. Khoảng 11h đêm thì mọi người giải lao. Một nồi chè đỗ đen được nấu từ chiều bưng ra giữa sân. Chè đỗ đen ngày đó thường chỉ nấu với mật mía vì không có đường. Nhà nào có một hai lạng đường thì cất rất kỹ để khi trong nhà có ai đau ốm thì dùng. Mỗi năm, lũ trẻ chỉ có cơ hội được ăn món chè đỗ đen nấu với mật mía đôi ba lần là cùng. Những năm tháng đó, cái gì cũng hiếm, cũng quí. Những chiếc kẹo có giấy bọc xanh đỏ thời đó đối với lũ trẻ chẳng khác gì những viên kim cương. Khi nồi chè đỗ đen được bưng ra, lũ trẻ ùa vào như một bầy thiêu thân lao vào ánh sáng.
Vào những đêm ngày mùa, lũ trẻ lấy những chậu nước để cạnh những chiếc đèn bão. Ánh sáng của những chiếc đèn bão hắt xuống chậu nước. Và những con châu chấu, cà cuống và cả những con niềng niễng có đôi cánh đen bóng từ cánh đồng và những đầm nước quanh làng thấy ánh sáng bay về và lao vào mặt nước lung linh trong những chiếc chậu. Bây giờ, có lẽ do dùng nhiều thuốc trừ sâu và những hóa chất khác mà người ta chẳng còn thấy những đàn châu chấu lớn, những con cà cuống và những con niềng niễng như ngày xưa.
Ngày ấy, khi người ta chuyển lúa về nhà thì những bầy côn trùng cũng theo về. Ngày mùa, lũ trẻ vừa như bị bỏ hoang vừa như được giải phóng khỏi sự cai quản của ông bà, cha mẹ. Chúng tự ăn, tự ngủ. Khi ngọn đồi lúa đã được đập xong thì lũ trẻ đã ngủ la liệt trên hiên nhà mặc cho muỗi đốt. Nhiều đứa ngủ ngon lành trên đống rơm tươi.
Buổi sáng, người làng dậy rất sớm phơi lúa. Còn rơm rạ thì phơi ở tất cả những nơi nào có thể. Mọi lối ngõ và đường làng ngập trong rơm rạ. Khi lên mười, tôi thường phải quạt lúa cho mẹ tôi. Lúa phơi khô phải quạt sạch để cho vào cót. Chiếc quạt lúa rất to có hai tay cầm. Một người cắp thúng lúa bên hông và nghiêng thúng cho lúa từ từ chảy xuống chiếc nong. Một người đứng phía sau quạt thật mạnh để rơm và những hạt lép bay về phía trước, còn những hạt lúa chắc, mẩy thì rơi xuống chiếc nong.
Công việc cuối cùng của ngày mùa là đánh những cây rơm. Nhà nào ít nhất cũng có một cây rơm. Thường họ đánh cây rơm ở góc sân hoặc góc vườn. Ngày ấy, rơm rạ là nguồn chất đốt chủ yếu. Những cây rơm đã làm nên phong vị làng quê. Nó giống như một quả đồi màu vàng thẫm gần gũi và ấm áp vô cùng. Vào mùa đông, những con mèo, chó và những con lợn nái thường rúc vào chân cây rơm để ngủ cho ấm. Và khi những cây rơm đã đánh xong, khi mọi công việc của ngày mùa đã kết thúc, người làng bắt đầu làm lễ cơm mới.
Những ngày ấy thời tiết thật dịu dàng và thật lộng lẫy. Đó là mùa nắng đẹp nhất trong năm. Đó cũng là những ngày nhà ai cũng tràn trề sự no đủ. Những con gà không còn bới đất tìm mồi như mọi khi. Diều chúng lúc nào cũng căng tròn vì thỏa thuê ăn lúa và côn trùng. Chúng nằm dưới những lùm cây lim dim ngủ như cả đời chúng chưa từng phải bới đất tìm mồi.
Lễ cơm mới không có một ngày nào cụ thể. Mỗi gia đình làm lễ cơm mới vào ngày họ muốn. Gọi là lễ cơm mới nhưng những món ăn thật dân giã. Có canh cua tháng Mười béo ngậy nấu với rau cải non đầu vụ, có cá rô hoặc cá diếc quấn kỹ với tương và mầm giềng trong những chiếc niêu đất, có châu chấu rang nước muối cà với lá chanh thơm phức và nếu gia đình nào có điều kiện sẽ mổ một con gà. Một mâm cơm với những món ăn như có tự ngàn đời được đặt lên ban thờ cúng tổ tiên, ông bà. Tất cả những món ăn có trong mâm cơm cúng là từ các sản vật sinh ra từ mảnh đất nắng mưa ngàn đời. Tất cả thật giản dị nhưng vô cùng thiêng liêng.
Và trong những ngày lễ cơm mới ấy, làng sẽ có một đêm xem diễn chèo ở sân đình. Đội chèo của làng sẽ diễn một tích chèo cũ. Nhưng tôi chỉ thích diễn về Trương Chi. Cảnh Trương Chi vừa chèo đò trên sông vừa hát. Phía bờ xa Mỵ Nương đầm đìa nước mắt nhớ thương. Tôi đứng tựa lưng vào một cây rơm ở góc sân đình lắng nghe tiếng hát Trương Tri do ông Dự người làng đóng mà thấy lòng xao xuyến khôn tả. Tiếng hát trong những đêm có trăng lu như dắt người nghe vào mộng vào mị.
Khi vở diễn tan thì đêm đã khuya. Lũ trẻ chúng tôi thường không chịu về nhà. Chúng tôi nửa nằm nửa ngồi bên cây rơm nói những chuyện chẳng đâu vào đâu rồi ngủ thiếp đi trong những ngọn gió mùa thu từ đầm sen trước cửa đình thổi về mát rười rượi. Và tôi thường tỉnh giấc khi gần sáng sương đã xuống và gió như lạnh hơn.
Tôi rời cây rơm về nhà. Cả đường làng nồng nàn trong mùi thơm của rơm mới và mộng mị tiếng hát Trương Chi. Nhưng cái thế giới của những ngày mùa mà tôi đang hồi tưởng trong da diết đã không còn nữa. Bây giờ rơm rạ được nông dân đốt ngay ngoài đồng sau khi gặt. Bây giờ không còn những cây rơm gần gũi và mơ mộng nữa. Bây giờ đèn điện sáng cả đêm nhưng không còn những con châu chấu cái với bụng trứng căng tròn, vàng ươm, những con cà cuống và đủ loại côn trùng bay về nữa. Bây giờ thôn quê có đủ loại thực phẩm cao cấp nhưng hầu như người ta không làm lễ cơm mới với những món ăn giản dị nhưng ăn một lần không thể quên. Bây giờ không còn những đêm diễn chèo mộng mị giọng hát Trương Chi.
Tất cả đã và đang rời xa. Nông thôn ngày càng phát triển. Nhưng chẳng lẽ là sự phát triển của những khối bê tông vô cảm và một môi trường đến côn trùng cũng không còn sống nổi hay sao? Bây giờ tôi vẫn về quê và đôi khi vẫn tự nấu một nồi cơm mới, một nồi canh cua đồng tháng Mười béo ngậy với rau cải non đầu mùa, với một niêu cá rô quấn kỹ với tương và mầm giềng thơm phức để được hồi sinh trong tinh thần kỳ lạ của những ngày mùa tháng Mười. Tinh thần ấy đã làm nên nghi lễ của lúa vàng trên đất đai này. Và rồi một mình thức trong vườn khuya để lắng nghe một tiếng côn trùng lẻ loi đâu đó vọng về.
Và bạn có biết không, được đi trên cánh đồng sau vụ gặt chỉ còn lại những gốc rạ trong một buổi chiều là một niềm hạnh phúc lớn. Khói đốt rạ của trẻ chăn trâu hòa vào sương chiều đang buông xuống làm nên một thế giới u huyền. Và đôi lúc, trong cái thế giới u huyền đó bạn không muốn trở về với một đời sống quay cuồng làm bạn như lúc nào cũng thở dốc vì mệt mỏi

