Bầu quốc hoa, quốc phục và quốc tửu: "Phú quý sinh lễ nghĩa"

Thứ Tư, 16/02/2011, 16:48
Những bông hoa thường ngày được nâng niu trong các phòng khách lịch lãm, hay đơn giản mọc hoang giữa đầm lầy mướt xanh, những bộ quần áo trai thanh gái lịch vẫn xúng xính mỗi dịp đình đám hội hè, cả những chai rượu "quốc lủi" nút lá chuối đặc trưng nhà quê, vị thế bỗng trở nên rất "nghiêm trọng", vì có thể được gán cho một cái danh xưng đặc biệt: quốc hoa, quốc phục, quốc tửu.

Cuộc bình chọn do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch khởi xướng, dù đã hình thành đề án (như quốc hoa), hay mới chỉ dừng ở mức khởi động, thăm dò (quốc phục, quốc tửu), đã thu hút sự chú ý của dư luận rộng rãi. Người dân quan tâm bởi, đối tượng được bình chọn, sẽ lập tức khoác lên mình ý nghĩa linh thiêng, như "biểu tượng về giá trị cốt lõi" của nước Việt mến yêu.

Thiên vị quốc hoa?

Thứ gì thế giới có, ta cũng phải có. Hơn 100 nước trên thế giới đã chọn quốc hoa, mà Việt Nam còn chần chừ, chậm trễ, đúng là điều khiến các nhà quản lý văn hóa bồn chồn, sốt ruột? Vậy nên, nhiều mỹ từ và lời bình thắm thiết đã được đưa ra để dẫn giải cho việc thực hiện đề án bình chọn quốc hoa. Chưa có kết quả cuối cùng, nhưng cuộc bình chọn đã gần như đem lại thế thượng phong cho hoa sen. Ngay tại  "Hội thảo bàn về đề án quốc hoa Việt Nam" tổ chức vào tháng 6/2010, nhiều ý kiến đã nhiệt tình đề xuất hoa sen.

Lễ hội "Hoa xuân và đồ uống Tết" diễn ra tại Hà Nội những ngày cuối cùng của năm âm lịch Canh Dần 2010 còn có hẳn một triển lãm về hoa sen, và dành riêng đêm hội "Hồn sen Việt" được truyền hình trực tiếp trên sóng VTV để tạo thêm sự chú ý cho khán giả cả nước. 13 tiêu chí làm định hướng để chọn quốc hoa do Bộ VH-TT&DL đưa ra, cũng dường như thể hiện sự ưu ái không lời cho loài hoa gắn với sự thanh tao, thuần khiết. Hoa sen thường trực trong tâm khảm, gần gũi và quen thuộc đến độ, nhắc đến quốc hoa nhiều người dân Việt Nam liền mặc định ngay trong đầu là hoa sen chứ không phải một loài đẹp xinh nào khác.

Hoa sen được bán tại công viên văn hóa Đầm Sen (TP HCM).

Tuy nhiên, cuộc tranh cãi về các loài hoa sẽ khó lòng có hồi kết, bởi ai cũng nhiều lý lẽ bảo vệ lựa chọn của riêng mình. Bậc túc nho, nhà văn hóa nức tiếng, GS Vũ Khiêu đề xuất chọn hoa mào gà làm quốc hoa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải chọn cây tre. Có người đưa ý tưởng về cây lúa, hoặc hoa mai, đào, ngọc lan…, thậm chí cả hoa rau muống… Luận bàn về hương sắc của một loài hoa, rốt cục cũng chỉ là chuyện "sắc đẹp không ở má hồng thiếu nữ, mà trong con mắt kẻ si tình", khó ai dám đứng ra làm trọng tài phân định đúng sai. Hoa sen giành vị thế ưu việt, nhưng lại bị chê "đụng hàng", bởi sen có nguồn gốc Ấn Độ, và đã được quốc gia đông dân thứ nhì thế giới chọn làm biểu tượng của nước mình. Nhắc đến hoa sen, thế giới cũng dễ liên tưởng đến Ấn Độ hơn là Việt Nam. Điều này đã được minh chứng, bởi "bản sắc" là thuộc tính riêng nhất, đặc trưng nhất nên dẫu nhiều quốc gia chọn hồng làm quốc hoa, thì phần đông người Việt Nam vẫn đương nhiên quan niệm, chỉ Bulgaria mới là "đất nước hoa hồng".

Tương tự, tulip cũng là quốc hoa của vài ba nước, nhưng một mình Hà Lan mới hay được gọi là xứ sở của hoa tulip. Ngược lại, hướng dương và cúc Chamimile là quốc hoa của Liên bang Nga, dù rằng nước Nga luôn được gắn với hình ảnh của cây bạch dương hơn là các loài hoa kiêu sa đó. Vậy nên, quốc hoa, cuối cùng không đơn thuần là một quyết định có tính hành chính, mà phải thực sự là biểu tượng để mỗi khi nhìn vào, thế giới đương nhiên nghĩ đó chính là Việt Nam.

Ở điểm cốt lõi này thì hoa sen chưa thể hiện ưu thế vượt trội. Nếu dưới mỗi bông hoa lại phải thêm một dòng chú thích về trọng trách và danh vị đang mang, thì có lẽ là điều, bản thân loài hoa đó cũng chả lấy gì làm vinh dự. Ở góc độ này, cây tre lại hội tụ được nhiều tầng ý nghĩa hơn rất nhiều. Một loài cây thuần túy Việt Nam, gắn bó với nền văn minh lúa nước, kết sâu rễ bền gốc với đời sống nông thôn, và đến tận bây giờ, dẫu tốc độ đô thị hóa có mạnh đến đâu, tre vẫn là phần không thể thiếu của làng quê Việt Nam. Quảng bá hình ảnh cây tre trên trường quốc tế, là động thái tích cực lăng xê cho các sản phẩm thủ công được bàn tay khéo của người thợ Việt Nam tạo dựng từ chính cây tre, cũng tức là cách thức thúc đẩy kinh tế, làm giàu từ chính "quốc hoa"… 

La đà quốc tửu

Cuộc bình chọn "quốc hoa" chưa vãn hồi, loài hoa đại diện chưa được điểm danh để tôn vinh xứng đáng, Bộ VH-TT&DL đã tiếp tục khởi động, thăm dò cho chiến dịch tìm ra "quốc tửu". Ý tưởng thoạt tiên nghe có vẻ hài hước, lại xuất phát từ những suy nghĩ hết sức vĩ mô và nghiêm túc: Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới, nên có một loại rượu thuần Việt để tiếp khách quốc tế là điều cần thiết. Rượu ở đây đã được quan niệm như văn hóa, là bản sắc, chứ không trần trụi yếu tố thức uống, ăn nhậu.

Giấc mơ về một chai rượu "made in Việt Nam", hội tụ đủ giá trị vật chất và tinh thần ngàn đời của dân tộc Việt Nam được đặt trang trọng trên những bàn tiệc bề thế, trong các bữa chiêu đãi trọng thể thượng khách đến từ năm châu bốn biển, thay thế cho các nhãn hiệu vang xuất xứ Chi Lê, Pháp hay rượu mạnh (Vodka, Whisky, Cognac) của Nga, Scotland, Pháp… khiến cho nhiều nhà quản lý văn hóa hứng khởi.

Rượu ngoại đang là phần không thể thiếu trong sinh hoạt thường ngày của người dân.

Dẫu vậy, "quốc tửu", ngay cả khi chưa hình thành đề án lẫn ban soạn thảo, đã bị dư luận dấy lên những mối hoài nghi, phản bác. GS Trần Lâm Biền gay gắt: Cuộc bầu chọn này không thuộc về số đông mà chỉ là chuyện riêng của những người "no cơm ấm cật".

Nói một cách nghiêm túc, nếu thực sự có một loại rượu đặc trưng Việt Nam, không ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, được lên men theo kiểu truyền thống, chất lượng đảm bảo và đóng chai đẹp, sang trọng…, lại được đông đảo người tiêu dùng từ thường dân lẫn quan khách, và các thương nhân ưa chuộng, thường xuyên sử dụng thì không gì may mắn bằng. Nói điều này bởi Việt Nam, tuy là nước nghèo, nhưng mỗi năm, số ngoại tệ đem ra nước ngoài để nhập khẩu rượu mang về cũng thuộc hàng "khủng".

Đấy là chưa kể, một cơ số không kiểm soát nổi rượu lậu, rượu giả các nhãn hiệu nổi tiếng thế giới vẫn làm mưa làm gió trên thị trường. Rượu trắng tự nấu, rượu quê và các loại rượu được truyền tụng như: rượu Bàu Đá (Bình Định), làng Vân (Bắc Giang), hay Gò Đen (Long An), Kiên Lao (Nam Định) chỉ còn được lưu hành trong phạm vi hẹp, hoặc những người thật sành, không chuộng ngoại mới ưa dùng.

Cuộc bình chọn "quốc tửu", nếu thực sự tạo ra một cuộc cách mạng về văn hóa rượu, ngấm vào dân "nhậu", và thay đổi tập quán, thói quen uống rượu trong cộng đồng là điều đáng mơ ước. Quốc tửu, mà chỉ là hình thức, chọn cho có, có để khoe với khách phương xa, không thể đi vào đời sống, không tác động đến nếp nghĩ và thói quen sinh hoạt của đại bộ phận nhân dân, thì là điều quá lãng phí, vô bổ. Hơn nữa, đem quốc tửu ra đãi khách quý, còn riêng mình chỉ tin dùng rượu ngoại, lại chính là sự bỡn cợt sâu sắc với "biểu tượng" của quốc gia.   

Băn khoăn quốc phục

Không như "quốc tửu" hầu như đều gặp phải sự phản đối, phần đông dư luận ngạc nhiên khi Bộ VH-TT&DL đề cập tới vấn đề bầu chọn quốc phục. Hình ảnh các đại sứ nước ngoài mỗi khi trình Quốc thư lên Chủ tịch nước, đều trịnh trọng bận quốc phục của đất nước mình mà người dân được chứng kiến qua truyền hình, cũng kích thích sự háo hức về một trang phục dân tộc riêng của Việt Nam.

Lâu nay, chưa cần ai bình chọn, áo dài đã được coi như "quốc phục" của giới nữ. Phụ nữ Việt Nam, dù xấu đẹp, béo gầy, già trẻ, mặc áo dài, đều thấy mình trở nên tự tin, duyên dáng và đằm thắm hơn nhiều. Áo dài đã là biểu trưng của Việt Nam, một hình ảnh mà nhìn thấy, du khách biết ngay đó chính là Việt Nam, không thể lẫn lộn với quốc gia nào khác. Nguyên bản tà áo dài đã làm thành quốc phục của nữ, không cần phải cầu kỳ thêm bớt, vẽ rồng phượng, hoa sen, hoa cúc, hay chọn màu sắc, kiểu dáng như cách mà những nhà quản lý đang rục rịch đề xuất. Trang trí mỗi chiếc áo dài thế nào, là quyền của cá nhân người mặc, không nên câu nệ bằng các quy định quá chi tiết, chặt chẽ. Bởi lẽ, càng cầu kỳ rồng phượng, nhuộm gấm thêu hoa, tà áo dài sẽ càng mất đi chất Việt Nam mà lại dễ lẫn, dễ khiến người ta liên tưởng tới văn hóa Trung Quốc.

Áo dài và tre đã được coi như biểu tượng của Việt Nam.

Phụ nữ áo dài, các đấng mày râu comple cà vạt sóng bước bên nhau, đã làm thành sự đối xứng về trang phục quá đẹp, vừa hiện đại, văn minh, lại gợi cảm, xưa cũ. Càng tìm kiếm thêm một kiểu áo nào làm quốc phục cho nam giới, sẽ chỉ càng lún sâu vào vòng luẩn quẩn, bế tắc. Bởi suy cho cùng, dù có được chứng thực bằng các văn bản pháp quy, nhưng không được nhân dân tiếp nhận, thì quốc phục, quốc hoa và quốc tửu cũng chỉ đứng bên lề cuộc sống, mang nặng tính phô trương, hình thức. Bản sắc, chỉ thực sự là bản sắc, khi tồn tại được qua sự đào thải nghiệt ngã của thời gian. Bộ trang phục áo dài khăn đóng của đàn ông, đã lùi vào dĩ vãng, chính vì đã bị "tẩy chay" với đương thời. Giờ mà lại lôi cái đã bị đặt bên ngoài cuộc sống ra làm quốc phục cho nam giới, thì quá lý tính. Không thể duy ý chí, gắn phạm trù văn hóa cho một sự vật, hiện tượng, và nghiễm nhiên nghĩ rằng, đối tượng đó sẽ mang tầm văn hóa.

Cuộc bình chọn "quốc hoa, quốc phục, quốc tửu" bị coi là chuyện "phú quý sinh lễ nghĩa", chính vì sự hình thức, xa rời cuộc sống, và tư duy lạm dụng khái niệm "văn hóa, bản sắc" đang ngày một sinh sôi nảy nở trong đời sống xã hội

Ngô Hương Sen - CSTC tuần số 45
.
.
.