Vụ Khổng Văn Phú, Chử Thị Hòa được tòa tuyên miễn trách nhiệm hình sự:

Tòa chuyển tội danh không đúng bản chất vụ án

Thứ Ba, 09/08/2016, 17:25
Ngày 1-8-2016, TAND tỉnh Phú Thọ đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử Khổng Văn Phú, 46 tuổi, Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Kính Đạt (Công ty Kính Đạt) cùng vợ là Chử Thị Hòa, 43 tuổi, Kế toán trưởng Công ty Kính Đạt. 

Theo kết luận điều tra của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Phú Thọ cũng như cáo trạng của Viện KSND tỉnh đều đề nghị truy tố bị can Phú và Hòa về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 139 BLHS. Khi đưa ra xét xử sơ thẩm, TAND tỉnh Phú Thọ đã không xét xử bị cáo Phú và Hòa về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà xử tội “Kinh doanh trái phép” theo khoản 2, điều 159 BLHS năm 1999.

Vụ việc gây xôn xao dư luận khi hai bị cáo được trả tự do ngay tại tòa và được một số phương tiện thông tin đăng tải nhưng không nêu rõ, gây hiểu lầm đây là vụ án oan sai. Ngay sau phiên xét xử sơ thẩm, Công an tỉnh Phú Thọ đã thông tin về diễn biến, kết quả điều tra, truy tố xét xử vụ án này, đồng thời cũng để dư luận rộng đường hiểu về bản chất của vụ án.

Ngày 18-4-2014, Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Phú Thọ ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Khổng Văn Phú và Chử Thị Hòa, đều trú ở khu 8, xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao là Giám đốc và Kế toán trưởng của Công ty Kính Đạt về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. 
Sổ gửi tiền mà Phú và Hòa phát hành.

Công ty Kính Đạt không được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động tín dụng, huy động tiền gửi tiết kiệm như các tổ chức tín dụng, nhưng Phú và Hoà thông báo rộng rãi thông tin Công ty Kính Đạt nhận tiền gửi với lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng thời điểm hiện tại (từ 1,5%/tháng đến 2%/tháng) với cam kết: Khi người gửi có nhu cầu rút tiền thì chỉ cần thông báo trước 10 ngày, công ty sẽ hoàn trả đủ tiền gốc và lãi. 

Đồng thời Phú, Hoà đã lấy danh nghĩa của Công ty Kính Đạt để in và phát hành “sổ gửi tiền” trái phép, có hình thức giống sổ gửi tiết kiệm của các tổ chức tín dụng để tạo niềm tin cho các cá nhân có nhu cầu gửi tiền. Tại trang cuối của sổ gửi tiền có in điều khoản “Sổ phải được giữ kín chỉ bên nhận và bên gửi biết để tránh trường hợp bị đánh cắp và làm giả sổ”.

Vì tin tưởng vào các thông tin và cam kết của vợ chồng Phú, Hoà đưa ra, từ năm 2010 đến năm 2012 nhiều người dân đã đến gửi tiền vào Công ty Kính Đạt với mục đích gửi tiền tiết kiệm để hưởng lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng. Sau khi nhận được tiền gửi, Phú và Hoà không hạch toán trên hệ thống sổ sách kế toán của Công ty, không có kế hoạch thực hiện các cam kết trả lãi suất mà chiếm đoạt sử dụng vào chi tiêu cá nhân. 

Với phương thức thủ đoạn nêu trên, từ năm 2010 đến 2012, Phú và Hoà đã chiếm đoạt tổng số tiền 5.187.150.000đ của 51 người dân gửi tiền vào Công ty Kính Đạt, đến nay mất khả năng thanh toán (cả 51 người dân đã có đơn tố cáo Phú và Hoà đến cơ quan CSĐT và đề nghị cơ quan điều tra xử lý theo quy định của pháp luật).

Ngày 06/4/2015, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã có bản kết luận điều tra đề nghị VKSND tỉnh Phú Thọ truy tố 02 bị can Phú và Hòa về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 4-6-2015, VKSND tỉnh Phú Thọ cũng đã có bản cáo trạng quyết định truy tố hai bị can về tội danh này.  

Trong quá trình truy tố xét xử, ngày 31-7-2015, ngày 15-10-2015 và ngày 31-3-2016 TAND tỉnh Phú Thọ đã có 3 quyết định về việc trả lại hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung với các nội dung: điều tra làm rõ về việc hạch toán, quản lý, sử dụng số tiền chiếm đoạt của 51 hộ dân vì theo lời khai của vợ chồng Phú - Hòa thì cả hai đã sử dụng số tiền này góp vốn nộp vào Công ty Kính Đạt. Một số bị hại có đơn đề nghị trả tự do cho Phú vì họ không bị chiếm đoạt tiền.

 Cơ quan CSĐT đã tiến hành điều tra bổ sung theo các yêu cầu của Tòa án và VKSND tỉnh xác định: việc Phú và Hoà khai nhận sử dụng toàn bộ số tiền gửi của 51 hộ dân nộp vào vốn điều lệ của công ty là không có căn cứ. Số tiền 5.187.150.000đ mà 51 hộ dân gửi vào Công ty Kính Đạt đều không được hạch toán theo dõi trên hệ thống sổ sách tài chính kế toán của công ty, không theo dõi trách nhiệm phải trả nợ tại Công ty Kính Đạt. 

Mà thực tế số tiền trên Phú và Hoà đã sử dụng với tư cách cá nhân góp vốn làm tăng giá trị sở hữu của mình tại công ty Kính Đạt (chỉ có là 844.600.000đ). Số còn lại (4.342.550.000đ) không được nộp vào Công ty Kính Đạt bằng hình thức góp vốn như lời khai của 2 bị can.

Cơ quan CSĐT đã ghi lại lời khai của 6 bị hại, họ đều xác định: Hòa đã trực tiếp cầm đơn đến và đề nghị họ ký nhằm giúp cho chồng được tại ngoại, nếu được thì sẽ trả được tiền nợ cho họ. Do đều là người thân quen, cùng xã và muốn được trả tiền nên các bị hại cùng ký vào đơn để Hòa gửi các cơ quan tiến hành tố tụng.

 Căn cứ kết quả điều tra, Cơ quan CSĐT đã có các bản kết luận điều tra bổ sung đề nghị Viện KSND tỉnh Phú Thọ truy tố bị can Phú và Hòa về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sảnđược quy định tại Khoản 4 điều 139 BLHS. Đồng thời, Viện KSND tỉnh Phú Thọ cũng có các cáo trạng Quyết định truy tố bị can Phú và Hòa về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ngày 1-8-2016, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, tất cả các bị hại đều khai tại toà là tự nguyện đến Công ty Kính Đạt cho vợ chồng Phú và Hoà vay tiền để kinh doanh và được trả tiền lãi theo thoả thuận. Do vậy, TAND tỉnh Phú Thọ không truy tố bị cáo Phú và Hòa về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà tuyên phạt cả hai phạm tội “Kinh doanh trái phép” theo khoản 2, điều 159 BLHS năm 1999. 

Nhưng do tội “Kinh doanh trái phép” không có trong BLHS năm 2015 nên Hội đồng xét xử vụ án đã áp dụng các tình tiết có lợi cho bị cáo để miễn trách nhiệm hình sự về tội danh này cho vợ chồng Phú – Hòa, đồng thời ra quyết định trả tự do cho Phú.

Theo Công an tỉnh Phú Thọ thì căn cứ tài liệu và kết quả điều tra vụ án nêu trên, có đủ căn cứ xác định Phú và Hoà đã phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Việc TAND tỉnh Phú Thọ chuyển tội danh của vụ án sang tội "Kinh doanh trái phép" là không đúng với bản chất vụ án. Đồng thời, nội dung đăng tải vụ án trên một số tờ báo không đầy đủ và không đúng bản chất nội dung kết quả xét xử của TAND tỉnh Phú Thọ đã làm cho dư luận hiểu lầm và cho là đây là vụ án oan sai, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân.

Hằng Mai
.
.
.