Chưa có nhà máy luyện kim nào cam kết sử dụng quặng Thạch Khê

Thứ Bảy, 07/10/2017, 08:04
Như Báo CAND đã nhiều lần có bài phản ánh về dự án mỏ sắt Thạch Khê, ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư với nhiệm vụ chủ trì, đánh giá tổng thể về dự án đã chính thức có quan điểm dừng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) cũng đã có ý kiến chính thức về dự án này.


Nguy cơ sẽ xảy ra một thảm họa môi trường

Dự án mỏ sắt Thạch Khê đang ứng dụng công nghệ khai thác quặng lộ thiên. Do đặc thù mỏ Thạch Khê ở sát biển (cách 1,5km), với moong khai thác sâu đến -500m, bờ mỏ là cát biển nên khai thác rất phức tạp. Việc bóc đất đá, khai thác quặng và vận chuyển đất đá về nơi đổ thải và vận chuyển quặng về kho chứa gây nhiều hệ lụy về môi trường.

Khi xuống độ sâu vào lòng mỏ và khi bãi thải cao dần sẽ làm cho việc vận chuyển ngày càng phức tạp, dễ xảy ra tai nạn, năng suất thấp, trong khi thiết kế kỹ thuật của dự án chưa thể hiện rõ hệ thống đường giao thông trong mỏ, kể cả dự phòng cứu nạn và giải tỏa ách tắc giao thông.

Về công nghệ luyện kim, các nhà khoa học cho rằng, quặng sắt Thạch Khê có hàm lượng kẽm 0,0071%, gây phát thải khí độc hại và gây ăn mòn thiết bị trong quá trình luyện thép rất lớn, đòi hỏi công nghệ rất đặc biệt ở xưởng nấu chảy của lò luyện thép. Với đặc điểm quặng như vậy, cần có công nghệ luyện kim phù hợp.

Tuy nhiên, trong báo cáo dự án chưa đề cập tường minh vấn đề này. Nếu hoạt động theo kiểu lò cao của một số công ty nước ngoài giới thiệu với chế độ nhiệt độ cao đỉnh lò, sẽ dẫn đến tốn thêm nhiên liệu, giá thành sẽ cao hơn và kết cấu đỉnh lò cao phải khác bình thường, chi phí xây dựng sẽ cao hơn.

Dù mới chỉ khai thác bước đầu, mỏ sắt Thạch Khê đã gây ra hiện tượng sụt nước ngầm và sa mạc hóa ở các xã xung quanh.

Thực tế, các nhà máy luyện thép ở Việt Nam chưa có lò cao loại này, có nghĩa ở Việt Nam chưa có nhà máy luyện kim nào có cam kết sẵn sàng sử dụng quặng sắt Thạch Khê như cam kết của chủ đầu tư. Việc khai thác mỏ và tuyển quặng sắt Thạch Khê sẽ chịu nhiều rủi ro.

Nguy cơ sụt giảm, thậm chí cạn kiệt nước ngầm một lần nữa được các nhà khoa học khẳng định lại, cho thấy đây không phải sự “lo hão” của riêng Hà Tĩnh, bởi theo các nhà khoa học, khi khai thác sẽ phải bơm hút nước tháo khô mỏ.

Trong báo cáo ĐTM và báo cáo giải trình, TIC mới chỉ đưa ra giải pháp bơm hút nước trong moong mỏ đổ ra biển, nhưng giải pháp này rất tốn kém với độ sâu trên 500m và chưa giải quyết triệt để được vấn đề chống suy thoái nước ngầm. Các nhà khoa học cũng rất lo ngại việc đổ nước thải mỏ ra biển với khối lượng rất lớn trong suốt đời dự án sẽ gây ra thảm họa môi trường trên vùng biển ven bờ Hà Tĩnh và các tỉnh lân cận. Các nhà khoa học cho rằng cần phải có kết quả phân tích các kim loại nặng, độc hại đi kèm quặng sắt.

Tổn thất khai thác quá lớn

Về hiệu quả kinh tế, các nhà khoa học cũng cho rằng chi phí khai thác, sản xuất và vận chuyển cao. Mỏ Thạch Khê có điều kiện địa chất thủy văn, địa chất công trình phức tạp, đòi hỏi chi phí thăm dò bổ sung và khai thác lớn. Chi phí tuyển luyện quặng cũng lớn, do hàm lượng Zn trong quặng tương đối cao. Các chi phí chống thấm, ngăn chặn nước ngầm, tháo khô mỏ, xử lý nước thải sản xuất và tận dụng nước thải sau xử lý, xây dựng đê chắn bao quanh bãi thải, nhất là đê bao bãi đổ thải ra biển và đề phòng các sự cố môi trường đều cao...

Cũng theo các nhà khoa học của Vusta, quặng sắt Thạch Khê thuộc loại hình quặng biến chất tiếp xúc trao đổi - skarn, thân quặng nội sinh có hình thù phức tạp, đá vây quanh quặng lại là đá cacbonat, có thể hình thành những hang karst chứa nước, khi bị tác động có thể gây tai nạn do bục nước như đã từng xảy ra tình trạng chết người trong hầm lò cũ ở vùng than Uông Bí, Quảng Ninh.

Để phòng tránh rủi ro này, cần đầu tư bổ sung công trình khoan kiểm tra nhằm khẳng định có hay không hiện tượng karst. Công việc này càng làm tăng cao giá thành sản phẩm quặng khai thác và giảm hiệu quả kinh tế.

Ngoài ra, địa điểm sản xuất, tuyển luyện quặng phân tán làm cho việc vận chuyển từ mỏ về nơi luyện sẽ khó khăn, đẩy giá vận tải lên cao, tổn thất quặng trong quá trình vận chuyển lớn. Tại khu vực gần mỏ Thạch Khê chỉ có 1 cảng dùng cho việc đậu đỗ tàu đánh bắt cá và cũng luôn bị bồi lấp. Để chuyên chở quặng thì dùng tàu lớn mới hiệu quả, làm cước vận tải cao, tăng giá quặng.

Ngoài ra, TIC mới chỉ tập trung vào khoáng sản chính là quặng sắt, chưa tận dụng các loại tài nguyên khác mà xem là chất thải. Báo cáo cũng chưa nêu đầy đủ các kim loại quý hiếm có thể đi kèm trong quặng nên có thể lãng phí tài nguyên. Văn bản của Vusta cũng nêu ra một thực trạng là việc tổn thất quá nhiều tài nguyên trong khai thác.

Theo hồ sơ dự án, trữ lượng quặng Thạch Khê được phê duyệt trước đây là 544 triệu tấn (cấp B+C1+C2), trữ lượng đưa vào thiết kế khai thác được duyệt năm 2017 là 369,9 triệu tấn quặng nguyên khai, còn lại trong lòng đất Thạch Khê khoảng 274 triệu tấn. Nguyên phần còn lại trong lòng đất đã lớn hơn trữ lượng và tài nguyên của mỏ sắt khác trong nước gộp lại và các nhà khoa học cho rằng: Tổn thất tài nguyên khi khai thác mỏ sắt Thạch Khê là quá lớn. Đây là phần quặng để dự trữ cho mai sau, hay là món nợ của thế hệ hôm nay đối với thế hệ tương lai, cần được chủ dự án làm sáng tỏ.

Vũ Hân
.
.
.