Nhiều đóng góp quan trọng trong điều trị ung thư vú

Thứ Năm, 22/11/2018, 10:50

Trong bối cảnh tỷ lệ mắc ung thư vú gia tăng, người bệnh cũng ngày càng trẻ hóa, thì việc áp dụng các biện pháp mới trong chẩn đoán và điều trị giúp cho tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú tại Việt Nam tương đương với các nước phát triển trong khu vực là một dấu ấn đáng tự hào của Việt Nam. Đặc biệt, tại Bệnh viện K, tỷ lệ chữa khỏi đạt trên 75%, ngang với Singapore.



Đây là một trong những kết quả của Cụm công trình khoa học Dịch tễ học, ứng dụng các tiến bộ mới trong chẩn đoán, điều trị và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh ung thư vú vừa được nhận giải Nhất lĩnh vực Y dược Nhân tài Đất Việt 2018. Thành công này thuộc về nhóm tác giả: GS.TS Trần Văn Thuấn, GS.TS Nguyễn Bá Đức, PGS.TS Bùi Diệu, PGS.TS Tạ Văn Tờ và các cộng sự thực hiện, nhưng GS. Thuấn khẳng định đây là cụm công trình của tập thể nhiều thế hệ cán bộ y tế Bệnh viện K hơn 25 năm qua.

Công trình nghiên cứu trên cho thấy ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Việt Nam và tăng qua các năm: Năm 2013 tỷ lệ mắc ung thư vú là khoảng 24.4/100.000 phụ nữ, đến năm 2018 tăng lên tới 26.4. Trung bình mỗi năm cả nước có hơn 15.000 chị em mắc ung thư vú, trên 6.000 trường hợp tử vong, thường xuyên có 42.000 chị em đang sống chung với bệnh này.

GS.TS Trần Văn Thuấn -Giám đốc Bệnh viện K

Điều đặc, ung thư vú ở Việt Nam có xu hướng trẻ hơn các nước. Xu hướng mắc ung thư vú ở phụ nữ Việt Nam tăng từ độ tuổi 30-34 tuổi và tăng nhanh, đỉnh cao ở 55-59 tuổi với tỷ lệ là 135/100.000 dân. Đáng lưu ý là tỷ lệ người trẻ mắc ung thư vú cao hơn và khả năng chữa khỏi thấp hơn so với những người tuổi cao. Người trẻ mắc ung thư vú còn phải đối mặt với hàng loạt vấn đề tâm lý và xã hội trong và sau điều trị.

 Nhưng những nghiên cứu của Bệnh viện K đã đưa ra được phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn các các phác đồ kỹ thuật hiện đại của các nhóm chuyên gia khác nhau, giúp các bệnh nhân nữ không chỉ được chữa khỏi mà còn duy trì được hình thức thẩm mỹ của cơ thể, nâng cao chất lượng sống.

Không chỉ thế, các tác giả còn tìm giải pháp để nâng cao tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú, đặc biệt là người trẻ và khẳng định: Quan trọng nhất vẫn là đi khám, phát hiện sớm bệnh. “Chúng tôi đưa ra khuyến cáo mới, thay vì sàng lọc, tầm soát từ 45 tuổi thì phụ nữ Việt Nam nên bắt đầu sàng lọc sớm hơn, từ 40 tuổi trở đi. Thực tế, khi sàng lọc phát hiện sớm với mẫu trên 100.000 phụ nữ, tỷ lệ phát hiện là 59,2 trên 100.000 dân gấp đôi so với tỷ lệ thông thường. Dù là bệnh phổ biến, ở giới đặc thù là chị em song tỷ lệ đến khám, chẩn đoán ung thư vú muộn khá cao trên 50%, ở các giai đoạn 3, 4. Khi đó khả năng chữa khỏi không còn cao như giai đoạn sớm. Chị em cũng cần có thói quen tự khám vú” -GS Thuấn cho biết.

Việc công trình áp dụng thành công hàng loạt các kỹ thuật chẩn đoán hiện đại, đi sâu vào mức độ phân tử như hóa mô miễn dịch, FISH…đã giúp các bác sỹ có cái nhìn sâu hơn về bệnh, để đưa ra phác đồ điều trị nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, giải thích tại sao một số người bệnh có đặc điểm tương đồng về tuổi và giai đoạn lại có kết quả điều trị khác nhau xa.

Một ca mổ tại Bệnh viện K

Trước đây, khi mắc ung thư vú thì tiên lượng bệnh rất xấu vì dễ di căn, nguy cơ tử vong cao. Song nhờ áp dụng kỹ thuật mới trong chẩn đoán, điều trị, tỷ lệ sống sau 5 năm đã đảo chiều ngoạn mục. Tỷ lệ sống thêm sau 1-3 năm là 87-98%, kể cả ở các nhóm có di căn hạch tỷ lệ sống không bệnh sau 5 năm là trên 75%. Bệnh viện K là nơi đầu tiên áp dụng phương pháp FISH, để nâng cao tỉ lệ sống cho bệnh nhân.

Bệnh viện còn áp dụng hàng loạt kỹ thuật hiện đại giúp bảo tồn, tái tạo tuyến vú: Các kỹ thuật mổ xẻ hiện đại như oncoplasty gặp nhiều khó khăn do kích thước tuyến vú ở phụ nữ Việt Nam tương đối nhỏ, song Cụm công trình cũng đã giải quyết thành công vấn đề này, đem lại niềm tin cho người bệnh, được các đồng nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá cao.

Bên cạnh đó xạ trị kỹ thuật cao như xạ trị điều biến liều IMRT cũng lần đầu được ứng dụng đã giúp tăng tính chính xác và giảm tác dụng phụ đối với các mô lành xung quanh tổ chức u, tăng hiệu quả điều trị ung thư vú, tác dụng phụ hạn chế, cho phép nâng cao liều xạ trị.

Đặc biệt, kết quả nghiên cứu ung thư vú, khảo sát đánh giá các loại ung thư  của nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra một v rất quan trọng: Ung thư không đáng sợ như suy nghĩ của người nhiều người và nếu được phát hiện sớm khả năng điều trị khỏi càng cao.  

“Ở các nước phát triển họ quan niệm bệnh ung thư chỉ là bệnh mãn tính, viêm nhiễm như bệnh tiểu đường, không phải là bản án tử hình. Một số người nổi tiếng như Lance Armstrong bị ung thư tinh hoàn vẫn vô địch giải đua xe đạp Tour de France. Ở Việt Nam cũng nhiều tấm gương người bệnh chiến thắng bệnh tật. Bằng chứng là các y bác sĩ, những người thầy của tôi vẫn nhận được bó hoa chúc mừng của bệnh nhân sau 40-45 năm tặng. Điều đó cho thấy, ung thư hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu quan tâm, đặc biệt là sàng lọc phát hiện sớm” -GS Thuấn nhấn mạnh.

Cũng theo GS. Thuấn, trên 95% người mắc ung thư vú được phát hiện sớm để điều trị sẽ khỏi bệnh. Tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú của Bệnh viện K là trên 70% nhưng nhóm nghiên cứu vẫn kỳ vọng sẽ tăng tỉ lệ chữa khỏi lên nữa nếu nhiều trường hợp được phát hiện sớm hơn. Cơ sở cho mong muốn này chính là trình độ tay nghề phẫu thuật, kinh nghiệm của bác sĩ cũng như máy móc, trang thiết bị đã ngang tầm các nước phát triển.

GS. Thuấn mong muốn Bảo hiểm Xã hội Việt Nam sẽ chi trả cho chi phí sàng lọc phát hiện sớm bệnh, để tăng tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú, giảm chi phí. Nếu phát hiện muộn việc điều trị tốn kém, lâu dài, hiệu quả không cao.

Thanh Hằng
.
.
.