90% DN FDI cung cấp linh kiện ô tô cho thị trường Việt Nam

Thứ Ba, 30/10/2018, 10:53

Ngày 30- 10 tại Hà Nội, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức hội thảo “ Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô: Tác động chính sách, các rào cản và giải pháp”.


.

Trong thời gian qua, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ngành sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam gồm cả DN FDI và DN nội địa đã được được những thành tựu nhất định. Đến nay đã có 358 DN sản xuất liên quan đến ô tô, trong đó có 50 DN lắp ráp ô tô, 45 DN sản xuất khung gầm, thân xe và thùng xe, 214 DN sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô… số lượng trên thấp hơn rất nhiều so với 385 DN ở Malaysia và 2500 DN ở Thái Lan về sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô.

Phụ tùng, linh kiện chủ yếu được sản xuất và nhập khẩu từ DN FDI, tỷ lệ đặt hàng phụ tùng linh kiện từ DN nội địa cung cấp rất thấp. 

CNHT ngành sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số nhóm linh kiện, phụ tùng  như chi tiết cấu thành khung gầm xe, thùng xe, vỏ cabin, cửa xe, săm lốp, bộ tản nhiệt, dây phanh, dây dẫn điện, trục dẫn, vành bánh xe, nhíp lò xo, ống xả, ruột két nước, hộp số, vô lăng, van điều khiển trong hộp số tự động, điều khí trong động cơ, sơmi xi- lanh, ghế ngồi, bàn đạp chân ga, chân phanh, ăng ten cho radio trong xe, một số sản phẩm đúc kim, một số chi tiết composite…

 “Đầu tư cho sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô còn mang tính nhỏ lẻ, sản phẩm làm ra ít cả về chủng loại và sản lượng. Sức cạnh tranh quốc tế của CNHT ngành sản xuất, lắp ráp ô tô còn hạn chế, nhất là sản phẩm của DN nội địa”. Ông Lương Đức Toàn, Phó Trưởng phòng Phòng Công nghiệp chế biến, chế tạo, Cục Công Nghiệp ( Bộ Công Thương) cho biết.

Theo ông Lương Đức Toàn, đối với các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hoá cao, đáp ứng về cơ bản, cụ thể, xe tải 7 tấn đã đáp ứng khoảng 70% nhu cầu với tỷ lệ nội địa hoá trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, một số loại xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu tỷ lệ nội địa hoá đạt từ 45-55%. Một số phụ tùng linh kiện đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ. Tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, thấp hơn mục tiêu đề ra.

Phụ tùng, linh kiện chủ yếu được sản xuất và nhập khẩu từ DN FDI, tỷ lệ đặt hàng phụ tùng linh kiện từ DN nội địa cung cấp rất thấp. Trong số các DN cung cấp hiện có, hơn 90% là DN FDI, chỉ có số ít DN trong nước có thể tham gia vào mạng lưới của DN cung cấp cho các DN sản xuất lắp ráp ô tô ở Việt Nam.

 Ông Shinjiro Kajikawa, Phó Giám đốc Toyota Việt Nam cho biết, thị trường Việt Nam có lịch sử biến động rất lớn do bất ổn về chính sách khiến các nhà đầu tư do dự khi đầu tư vào Việt Nam. Thêm vào đó sản xuất nội địa còn thấp. 

Để phát triển CNHT ngành ô tô, theo ông Toàn cần phải nâng cao năng lực DN CNHT ngành ô tô đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu. Triển khai hiệu quả Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ. Thúc đẩy liên kết giữa các DN CNHT và các DN sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh bao gồm thị trường trong nước và ngoài nước đặc biệt với một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc… đồng thời, hỗ trợ các DN nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý sản xuất, chuyển giao công nghệ, phát triển khoa học và công nghệ và phát triển nguồn nhân lực công nghiệp hỗ trợ.

Đặc biệt, trong đó hình thành gói tín dụng ưu đãi với cơ chế tương tự như gói tín dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao để phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên. Hình thành các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn và thu hút đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT, trong đó là thu hút đầu tư FDI từ các tập đoàn sản xuất linh kiện hàng đầu thế giới.





Lưu Hiệp
.
.
.