Chi 12.000 tỷ đồng để đào tạo thêm 9.000 tiến sĩ!
Theo Bộ GD&ĐT, để thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt tỉ lệ 35% tổng số giảng viên các cơ sở giáo dục đại học (ĐH), tương đương với khoảng 9.000 tiến sĩ. Tổng kinh phí thực hiện Đề án dự kiến là khoảng 12.000 tỷ đồng.
Thiếu về số lượng, yếu về chất lượng
Thống kê của Bộ GD&ĐT, trong năm học 2016-2017, tổng số cơ sở giáo dục đại học ở nước ta là 235, số lượng giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học là 72.792 người, tăng 3.201 người so với năm học 2015-2016.
Trong đó số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 người (chiếm 22,7%); trình độ thạc sĩ là 43.127 người (chiếm 59,2%); trình độ đại học và cao đẳng là 12.519 người (chiếm 17,2%); chuyên khoa I, II là 523 người; trình độ khác là 109 người.
Kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam đang tụt xa so với các nước trong khu vực dù số lượng người có trình độ trên ĐH ngày càng tăng. Ảnh minh họa |
Toàn ngành giáo dục hiện có 4.687 giáo sư và phó giáo sư (chiếm 6,4% tổng số giảng viên), trong đó 574 giáo sư (chiếm 0,8%) và 4.113 phó giáo sư (chiếm 5,6%). Nhìn vào con số trên cho thấy, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ công tác tại các cơ sở giáo dục ĐH còn thấp, chưa hợp lý về cơ cấu độ tuổi và chưa cân đối giữa các ngành đào tạo.
Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn thấp so với một số quốc gia trong khu vực. Mặc dù tại một số cơ sở giáo dục ĐH tốp đầu như ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Cần Thơ, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ khá cao, khoảng 45%, tương đương tỉ lệ tại một số quốc gia trong khu vực.
Tuy nhiên, nếu tính trên tổng thể thì tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ còn rất khiêm tốn (chỉ chiếm 23% tổng số giảng viên). Thậm chí, tại một số cơ sở giáo dục ĐH và các trường cao đẳng sư phạm có các khoa, bộ môn đặc thù như Khoa Giáo dục thể chất, Khoa Giáo dục mầm non, Khoa Giáo dục tiểu học, bộ môn nghệ thuật, bộ môn ngoại ngữ, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ rất thấp, một số nơi không có tiến sĩ.
Số lượng giảng viên và cán bộ quản lý có chức danh giáo sư (GS) và phó giáo sư (PGS) công tác tại các cơ sở giáo dục ĐH cũng thấp (6,4%); trình độ hạn chế dẫn tới việc thiếu chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt, trên phương diện hội nhập quốc tế về nghiên cứu khoa học, số lượng các công bố quốc tế trên các tạp chí thuộc danh mục ISI và Scopus của Việt Nam còn hạn chế. Tại một số cơ sở giáo dục ĐH, trong nhiều năm học, không có công trình, bài báo công bố quốc tế.
Công bố quốc tế giữa các chuyên ngành không đồng đều. Lĩnh vực khoa học xã hội có rất ít công bố ra quốc tế. Bằng chứng là trong đợt xét công nhận GS, PGS năm 2015, chỉ có 3/28 hội đồng ngành mà 100% tân GS, PGS có công bố quốc tế là vật lý, toán học và CNTT, có 10/28 hội đồng ngành còn lại không có công bố quốc tế.
Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 GS, PGS và trên 24.300 tiến sĩ nhưng kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam tụt xa so với các nước trong khu vực ASEAN.
Trong thời gian 10 năm (từ 1996-2005), các nhà khoa học nước ta chỉ công bố 3.456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí thuộc danh mục ISI. Kết quả này chỉ bằng 1/5 so với Thái Lan, 1/3 so với Malaysia và 1/14 so với Singapore. Ngoài ra, trong giai đoạn 2006 đến 2010,Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, tức trung bình mỗi năm chỉ có 1 bằng sáng chế.
Đến năm 2030, sẽ đào tạo thêm 9.000 tiến sĩ
Theo Bộ GD&ĐT, để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo nói chung, giáo dục ĐH nói riêng, Việt Nam cần nâng tỷ lệ cán bộ giảng viên ĐH có trình độ tiến sĩ lên 35%, tức tương đương với khoảng 9.000 tiến sĩ. Đặc biệt, trong số 9.000 tiến sĩ cần đào tạo từ nay đến năm 2030, sẽ đào tạo khoảng 5.000 tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường ĐH có uy tín trên thế giới.
Từ năm 2017 đến 2025, mỗi năm tuyển chọn khoảng từ 600-700 nghiên cứu sinh đi đào tạo ở nước ngoài; Đào tạo khoảng 500 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường ĐH Việt Nam và trường ĐH nước ngoài.
Từ năm 2017 đến năm 2025 mỗi năm tuyển chọn khoảng 60-70 người; đào tạo khoảng 2.000 tiến sĩ tại các trường ĐH đã được kiểm định ở Việt Nam; thu hút khoảng 1.500 tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc ngoài các cơ sở giáo dục ĐH đến làm việc tại các trường ĐH tại Việt Nam.
Đề án cũng đưa ra mục tiêu 100% cán bộ quản lý là chủ tịch hội đồng trường, hiệu trưởng/viện trưởng, hiệu phó/phó viện trưởng được bồi dưỡng về quản trị trường đại học; 100% giảng viên được bồi dưỡng chuẩn chức danh nghề nghiệp, về năng lực phát triển chương trình đào tạo, năng lực giảng dạy theo phương pháp hiện đại, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực ngoại ngữ và công nghệ thông tin.
Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả, đề án sẽ tiến hành rà soát đánh giá nhu cầu đào tạo tiến sĩ của các cơ sở đào tạo về số lượng, cơ cấu (theo lĩnh vực, ngành, chuyên ngành), xác định các lĩnh vực, ngành, chuyên ngành trọng tâm cần ưu tiên đầu tư đào tạo sớm với số lượng đảm bảo theo nhu cầu thực tế của công tác đào tạo nhân lực.
Tuyển chọn, cử giảng viên đủ điều kiện để đào tạo đạt trình độ tiến sĩ theo các phương thức: Đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài; đào tạo theo hình thức liên kết, phối hợp với các cơ sở ĐH nước ngoài và đào tạo tiến sĩ ở trong nước. Trong đó, riêng đối với việc đào tạo tiến sĩ ở trong nước, sẽ tập trung rà soát, đánh giá năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ của các cơ sở giáo dục ĐH trước khi giao chỉ tiêu nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra.
Dự kiến, tổng kinh phí thực hiện Đề án dự kiến là 12.000 tỷ đồng, bao gồm 10.200 tỉ đồng từ kinh phí còn lại của Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020 được phê duyệt theo Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ và 1.800 tỉ đồng từ các cơ sở giáo dục đại học và đối tượng thụ hưởng Đề án.