Việt Nam là một trong những quốc gia có luật bình đẳng giới tiến bộ nhất Châu Á

Thứ Sáu, 07/09/2018, 15:14
Theo Giám đốc quốc gia, tổ chức Oxfam tại Việt Nam Babeth Ngọc Hân Lefur, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF) tổ chức tại Hà Nội từ 11 đến 13 tháng 9 là cơ hội để các quốc gia có thể học hỏi những thành công và thách thức của Việt Nam trong việc thúc đẩy bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. 


Hiện nay, trên toàn cầu, số nam giới sở hữu đất, cổ phiếu và các tài sản vốn khác nhiều hơn số nữ giới; nam giới được trả lương cao hơn phụ nữ làm cùng vị trí; và phần lớn các công việc được trả lương cao hơn là do nam giới nắm giữ. Các chuẩn mực xã hội, thái độ và niềm tin đã hạ thấp vị thế và khả năng của phụ nữ, biện minh cho bạo lực và phân biệt đối xử với phụ nữ, và chỉ định các công việc mà nữ giới có thể và không thể nắm giữ. 

Những công việc chăm sóc không được trả lương đang đóng góp rất nhiều cho sự hưng thịnh của nền kinh tế thế giới nhưng lại không được công nhận và đãi ngộ, khiến phụ nữ bị phụ thuộc và hạn chế các lựa chọn của họ. Trong khu vực doanh nghiệp xã hội, Đông Nam Á đang dẫn đầu trong việc hướng tới bình đẳng trong thu nhập và các cơ hội lãnh đạo cho phụ  nữ so với các khu vực khác. Tuy nhiên, phụ nữ Châu Á vẫn chỉ kiếm được số tiền bằng một phần lương của nam giới, và nguy cơ phụ nữ bị trả lương thấp hơn mức tối thiểu cao hơn so với nam giới.

Trong khi đó, tại Việt Nam, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động là 73%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ cao nhất trong khu vực. Và "Việt Nam là một trong những quốc gia có luật bình đẳng giới tiến bộ nhất Châu Á, là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công ước CEDAW của Liên Hợp Quốc (LHQ) về quyền phụ nữ vào năm 1982", bà Babeth Ngọc Hân Lefur nhấn mạnh. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả hơn, Chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam vẫn cần bắt đầu từ việc giải quyết ba rào cản chính đối với bình đẳng kinh tế. 

Thứ nhất, môi trường chính sách cần định giá lại và tái phân bổ các công việc chăm sóc để chấm dứt tình trạng gấp đôi gánh nặng mà nhiều phụ nữ gặp phải. Thứ hai, nâng cao vị thế kinh tế cho phụ nữ là điểm thuyết phục có lợi của các công ty và doanh nghiệp, nhưng nó chưa đủ để minh chứng cam kết thay đổi văn hóa doanh nghiệp vốn chứa đựng những thành kiến cản trở cơ hội tiếp cận của phụ nữ tới nguồn lực, tài sản và các vị trí lãnh đạo. Cuối cùng, rào cản lớn nhất đối với sự thay đổi chính là các chuẩn mực xã hội, niềm tin và thái độ còn tồn tại dai dẳng trong hoạt động thực tiễn tại các công ty và các tổ chức. Không thể phủ nhận tầm quan trọng của chính sách, nhưng chính sách sẽ không có ý nghĩa gì nếu không được áp dụng một cách nhất quán. 

Bà Babeth Ngọc Hân Lefur cũng cho rằng, tại Việt Nam, môi trường pháp lý cung cấp một nền tảng tốt để các công ty có thể phát triển những chính sách về giới toàn diện trong tổ chức cũng như trong vận hành kinh doanh. Nhiệm vụ thách thức và phức tạp là đẩy mạnh cách nghĩ và văn hóa về đa dạng giới tại nơi làm việc, ví dụ như không ủng hộ các định kiến giới, xử phạt các hành vi phân biệt đối xử về giới và thúc đẩy các giá trị và thực hành bình đẳng và đa dạng giới. 

Các doanh nghiệp thực sự hướng tới kinh doanh bao trùm sẽ thực hiện các giải pháp với chiến lược nội bộ và bên ngoài toàn diện, bao gồm các chính sách tốt, văn hóa kinh doanh đánh giá cao sự lãnh đạo của phụ nữ và đóng góp vào sự thịnh vượng chung của xã hội. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ đến từ việc tối đa hóa lợi nhuận mà nó còn nằm ở sự đa dạng giới và một môi trường bền vững thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp.


H.Chi
.
.
.