COVID-19 tác động nghiêm trọng tới việc làm và số giờ làm việc

Thứ Tư, 08/04/2020, 13:50
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, 1,25 tỷ lao động đang làm việc trong các ngành được xác định là có nguy cơ cao sẽ gia tăng tỷ lệ sa thải cũng như giảm lương và số giờ làm việc.


Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về dịch COVID-19 và thế giới việc làm, 1,25 tỷ lao động đang làm việc trong các ngành được xác định là có nguy cơ cao sẽ gia tăng “một cách chóng mặt và nghiêm trọng” tỷ lệ sa thải cũng như giảm lương và số giờ làm việc. Với nhiều người lao động đang làm các công việc yêu cầu kỹ năng thấp, vốn đã bị trả lương ít ỏi, thì việc đột ngột mất thu nhập sẽ dẫn tới hậu quả nặng nề.

Tác động nặng nề hơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009

Báo cáo cũng chỉ ra những ngành nghề và khu vực bị tác động nghiêm trọng nhất, cũng như đề xuất chính sách để vượt qua khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng mang tên COVID-19 dự kiến sẽ cướp đi 6,7% tổng số giờ làm việc trên toàn cầu trong quý 2 năm 2020 - tương đương với 195 triệu việc làm toàn thời gian. 

Những khu vực chịu tác động nghiêm trọng dự kiến là các nước Arab (mất 8,1% số giờ làm việc, tương đương 5 triệu người lao động toàn thời gian), châu Âu (7,8%, tức 12 triệu người lao động toàn thời gian), và châu Á - Thái Bình Dương (7,2%, tương đương 125 triệu lao động toàn thời gian).

Các nhóm quốc gia chia theo mức thu nhập đều chịu tổn thất nặng nề, nhưng trong đó, các nước thu nhập trung bình cao bị tác động mạnh nhất (mất 7% tổng số giờ làm việc, tương đương 100 triệu người lao động toàn thời gian). Những con số này cho thấy sức tàn phá của đại dịch COVID-19 vượt xa tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009.

Các ngành kinh tế bị ảnh hưởng lớn nhất bao gồm dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, bán lẻ, các hoạt động kinh doanh và hành chính.  

Con số tổng kết về tình trạng thất nghiệp toàn cầu trong toàn bộ năm 2020 sẽ còn phụ thuộc nhiều vào các diễn tiến sắp tới và các biện pháp chính sách. Có khả năng cao là con số tổng kết cuối năm sẽ cao hơn nhiều so với dự báo ban đầu của ILO là 25 triệu người thất nghiệp.

Có tới 81% lực lượng lao động toàn cầu (3,3 tỷ người) hiện đang chịu tác động do nơi làm việc bị đóng cửa một phần hoặc toàn bộ.

“Người lao động và doanh nghiệp đều đang phải đối mặt với thảm họa, cả ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển,” Tổng Giám đốc ILO, Guy Ryder, cho biết. “Chúng ta phải hành động nhanh chóng, quyết đoán và trên cơ sở phối hợp tốt. Các biện pháp đúng đắn và cấp bách có thể tạo ra sự thay đổi và quyết định tương lai của chúng ta là tiếp tục tồn tại hay sụp đổ.”

Báo cáo nhanh số 2 của ILO: COVID-19 và thế giới việc làm miêu tả đại dịch COVID-19 là “cuộc khủng hoảng toàn cầu tồi tệ nhất kể từ sau Thế chiến thứ II”. Báo cáo cập nhật các số liệu nghiên cứu đã công bố vào ngày 18/3 vừa qua. Phiên bản cập nhật này bao gồm thông tin tác động của đại dịch theo ngành kinh tế và khu vực địa lý.

Nhìn vào các khu vực địa lý, tỷ lệ người lao động trong các ngành “có nguy cơ” này dao động từ 43% ở khu vực châu Mỹ, 26% ở khu vực châu Phi. Báo cáo cảnh báo rằng một số khu vực, nhất là châu Phi, có tỷ lệ phi chính thức ở mức cao, cùng với hệ thống an sinh xã hội yếu, mật độ dân số dày đặc và năng lực hạn chế, nên đây sẽ là những thách thức nghiêm trọng về y tế và kinh tế đối với các chính phủ.

Cần những chính sách đồng bộ

Trên toàn thế giới, 2 tỷ người lao động trong khu vực phi chính thức (chủ yếu ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển) là nhóm có nguy cơ cao bị tác động tiêu cực

Vì thế cần có các biện pháp chính sách trên diện rộng và đồng bộ, tập trung vào 4 trụ cột: hỗ trợ doanh nghiệp, việc làm và thu nhập; kích thích nền kinh tế và việc làm; bảo vệ người lao động tại nơi làm việc; và sử dụng đối thoại xã hội giữa chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động để tìm kiếm giải pháp.

Đây là bài kiểm tra quan trọng nhất trong hơn 75 năm về năng lực hợp tác quốc tế,” ông Ryder nhận định. “Nếu chỉ một quốc gia thất bại, thì tất cả chúng ta sẽ đều thất bại. Chúng ta phải tìm ra giải pháp để hỗ trợ mọi thành phần trong xã hội toàn cầu, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, những người có ít khả năng tự giúp đỡ mình nhất.”

Những sự lựa chọn của chúng ta ngày hôm nay sẽ trực tiếp tác động tới các cuộc khủng hoảng này tiến triển ra sao và cuộc sống của hàng tỷ người sẽ như thế nào. Chúng ta cần hướng tới xây dựng những hệ thống mới tốt hơn, an toàn hơn công bằng hơn và bền vững hơn so với những nền tảng cũ đã để cuộc khủng hoảng này xảy ra. Kết quả nghiên cứu được công bố là cảnh báo cần thiết cho mỗi quốc gia trong việc hoạch định chính sách phục hồi nền kinh tế hậu COVID-19 của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Quang Minh
.
.
.