Tập trung vốn ODA cho lĩnh vực đột phá, mang lại hiệu quả

Thứ Năm, 09/08/2018, 17:41

Chiều 9-8, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp tục Phiên họp thứ 29, tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài giai đoạn 2011-2016”.



Tổng vốn ODA tăng hơn 59%

Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính – Ngân sách, Trưởng đoàn giám sát của UBTVQH Nguyễn Đức Hải trình bày báo cáo tóm tắt cho biết: Trong giai đoạn 2011-2016, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành đã nỗ lực trong xây dựng, ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh việc quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài. Các Nghị định hướng dẫn liên quan đến nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ khâu lựa chọn và xây dựng dự án, tổ chức thực hiện và quản lý, đến khâu kiểm tra, giám sát, đánh giá dự án.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên thảo luận

Đã có 319 Hiệp định được ký kết với tổng giá trị đạt khoảng đạt hơn 33 tỷ USD, cao hơn 59% so với mức của thời kỳ 2006 – 2010. Trong số vốn vay đã đàm phán, ký kết, phần sử dụng để cấp phát cho các chương trình, dự án đầu tư không có khả năng hoàn vốn thuộc nhiệm vụ chi của NSNN khoảng 21,5 tỷ USD, chiếm 65% tổng trị giá ký kết; cho vay lại khoảng 11,8 tỷ USD. Bình quân trong giai đoạn 2011-2016, vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài chiếm 37,6% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN, cho thấy vai trò quan trọng của nguồn lực vay ODA và ưu đãi nước ngoài. 

Về dư nợ, đến 31-12-2016, nợ nước ngoài của quốc gia là 44,3%GDP, trong giới hạn cho phép (không quá 50% GDP theo Nghị quyết của Quốc hội).

 Về tình hình giải ngân vốn vay, trong giai đoạn 2011 – 2016, tổng giải ngân cả giai đoạn khoảng 28 tỷ USD (tương đương khoảng 560 nghìn tỷ đồng).

 Báo cáo của Chính phủ cho thấy, việc trả nợ các khoản vay nước ngoài của Chính phủ về cơ bản được thực hiện chặt chẽ, đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn ảnh hưởng tới cam kết, góp phần giúp Chính phủ từng bước cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.

Các dự án, công trình đầu tư từ nguồn vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài giai đoạn 2011-2016 cơ bản phù hợp với nhu cầu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Trong giai đoạn này, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức song Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế, xã hội quan trọng: Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng, các mặt của đời sống xã hội, kinh tế nông nghiệp nông thôn có những bước khởi sắc.

Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải đọc báo cáo giám sát

Nhiều công trình, dự án trọng điểm quốc gia sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong các lĩnh vực: giao thông, thủy lợi, năng lượng, môi trường... đã hoàn thành, được đưa vào khai thác, góp phần hoàn chỉnh, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng để thúc tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế…

Nhiều dự án chậm tiến độ, đội vốn

Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính – Ngân sách cũng chỉ ra một số hạn chế trong sử dụng vốn vay ODA, như: Một số dự án mức chi phí phải bỏ ra là khá lớn trong khi hiệu quả sử dụng chưa thực sự tương xứng; trong số những dự án được coi là thành công thì chất lượng công trình chưa cao, công nghệ chưa tiên tiến, chưa tương xứng với nguồn lực đầu tư; một số dự án chậm tiến độ đi đôi với việc tăng tổng mức đầu tư lớn, suất đầu tư tăng cao, tổng chi phí phải trả để đạt được mục tiêu lớn hơn nhiều so với dự kiến ban đầu, công nghệ trở nên lạc hậu do chậm tiến độ…

Chẳng hạn, dự án phát triển cảng quốc tế Cái Mép – Thị Vải tăng tổng mức đầu tư 8.160 tỷ đồng; dự án Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 1 tăng 10.515 tỷ đồng; dự án xây dựng đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai tăng 10.148 tỷ đồng. Dự án xây dựng đường cao tốc TP.Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây điều chỉnh lần 1 tăng 6.001 tỷ đồng, lần 2 tăng thêm 4.738 tỷ đồng; dự án thoát nước nhằm cải tạo môi trường Hà nội - Dự án II điều chỉnh 3 lần, tăng 91,4%...

Việc sử dụng vốn vay chưa phù hợp, đầu tư thiếu tính toán căn cơ, một số dự án hoàn thành nhưng không mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Ví dụ, trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo Tỉnh Quảng Ngãi thì ký túc xá Trường trung cấp nghề Đức Phổ đạt 53,1% tổng số chỗ ở; Trường ĐH Phạm Văn Đồng chỉ đạt 50,5% tổng số chỗ ở; Ký túc xá Trung tâm dạy nghề Trà Bồng 75 chỗ không có học viên ở…

Toàn cảnh phiên họp

Về phương hướng thời gian tới, báo cáo giám sát đề nghị tiếp tục quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng về huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài gắn với định hướng tái cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu lại đầu tư công. Thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính theo quy định của Hiến pháp, Luật NSNN và các văn bản pháp luật liên quan.

Xây dựng chiến lược, và kế hoạch trong từng giai đoạn cụ thể về huy động, sử dụng vốn vay nước ngoài phù hợp với điều kiện nguồn vốn ODA, mức độ ưu đãi của các nguồn vốn các nhà tài trợ để tập trung nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực có tính đột phá, có sức lan tỏa, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng.

Đối với nguồn ODA viện trợ không hoàn lại: Cần ưu tiên hỗ trợ giảm nghèo bền vững, các lĩnh vực xã hội (y tế, giáo dục,…), phát triển thể chế và nguồn nhân lực, khoa học, kỹ thuật, chuyển giao kiến thức và công nghệ…

Đối với vốn vay ODA: Cần tập trung cho những dự án có quy mô lớn, mang tính lan tỏa cao, có tính chất liên vùng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp quy hoạch, phát huy tối đa hiệu quả dự án để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã được Quốc hội quyết định.

Đối với vốn vay ưu đãi: Cần tập trung lựa chọn các dự án có khả năng thu hồi vốn đã trả nợ trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Cần thực hiện nghiêm quy định không vay để chi thường xuyên.

Các dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài cần tính toán, cân nhắc, so sánh hiệu quả, chi phí so với vay trong nước, tránh lệ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, phải được đánh giá kỹ về hiệu quả kinh tế - xã hội và tác động đối với nợ công…


Quỳnh Vinh
.
.
.