Mở rộng quyền của người nộp thuế
- Người nộp thuế tự cam kết và chịu trách nhiệm về thu nhập của người phụ thuộc
- Lấy người nộp thuế làm trung tâm, quan tâm bảo vệ quyền lợi người nộp thuế
- Ban hành chính sách phải quan tâm tới quyền lợi của người nộp thuế
Theo đó, tại Điều 16 Luật Quản lý thuế 2019 quy định về quyền của người nộp thuế (NNT) thì bên cạnh các quyền quy định tại Luật Quản lý thuế 2006, nhiều quyền mới của người nộp thuế đã được bổ sung nhằm đảm bảo quyền lợi của người nộp thuế như: Được nhận văn bản liên quan đến nghĩa vụ thuế của các cơ quan chức năng khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; được biết thời hạn giải quyết hoàn thuế, số tiền thuế không được hoàn và căn cứ pháp lý đối với số tiền thuế không được hoàn.
NNT được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và pháp luật về giao dịch điện tử.
Được sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch với cơ quan quản lý thuế và cơ quan, tổ chức có liên quan. Không bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, không tính tiền chậm nộp đối với trường hợp do người nộp thuế thực hiện theo văn bản hướng dẫn và quyết định xử lý của cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến nội dung xác định nghĩa vụ thuế của người nộp thuế…
Luật thuế mới kéo dài thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế thêm 1 tháng. |
Bên cạnh đó, NNT còn được kéo dài thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Cụ thể, theo quy định tại Luật Quản lý thuế 2006, thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày kết thức năm dương lịch, hoặc năm tài chính đối với hồ sơ quyết toán năm.
Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế 2019 cho phép cá nhân được nộp hồ sơ quyết toán thuế TNCN chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 4, kể từ ngày kết thúc năm dương lịch đối với hồ sơ quyết toán thuế TNCN của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế (kéo dài thêm 1 tháng so với Luật Quản lý thuế 2006).
Một điểm đáng chú ý đó là Luật Quản lý thuế mới siết chặt quản lý hoạt động chuyển giá. Đây là nội dung được giới chuyên gia, doanh nghiệp và người dân đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng luật là ứng xử của cơ quan thuế đối với hoạt động chuyển giá, do hành vi trốn thuế thông qua chuyển giá ngày càng phổ biến.
Để ngăn chặn tình trạng trên, Luật Quản lý thuế 2019 nghiêm cấm hành vi: thông đồng, móc nối, bao che giữa người nộp thuế và công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế để chuyển giá, trốn thuế. (Khoản 1, Điều 6).
Ngoài ra, để quản lý chặt chẽ hành vi trốn thuế, khoản 5 Điều 42 Luật Quản lý thuế quy định kê khai, xác định giá giao dịch liên kết theo nguyên tắc phân tích, so sánh với các giao dịch độc lập và nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ thuế để xác định nghĩa vụ thuế phải nộp như trong điều kiện giao dịch giữa các bên độc lập.
Giá giao dịch liên kết được điều chỉnh theo giao dịch độc lập để kê khai, xác định số tiền thuế phải nộp theo nguyên tắc không làm giảm thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, Luật cũng quy định, NNT có quy mô nhỏ, rủi ro về thuế thấp được miễn thực hiện quy định kê khai, xác định giá tính thuế theo nội dung trên và được áp dụng cơ chế đơn giản hóa trong kê khai, xác định giá giao dịch liên kết. Đặc biệt, lần đầu tiên quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử trong Luật Quản lý thuế.
Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh thương mại điện tử phát triển ngày càng rộng rãi thì việc xây dựng, ban hành các quy định về quản lý thuế trong lĩnh vực này là vô cùng cần thiết. Mặc dù những quy định trong luật mới chỉ là một trong những nội dung mang tính chất định hướng nhưng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.
Trong thời gian tới, khi ban hành các văn bản hướng dẫn sẽ có những quy định cụ thể về nội dung quản lý với hoạt động thương mại điện tử.