Hội Luật Quốc tế Việt Nam gửi thư ngỏ, lên án hành động của Trung Quốc ở Biển Đông

Thứ Tư, 28/08/2019, 20:11
Trong thư gửi Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Trung Quốc, Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam nêu rõ những cơ sở pháp lý quốc tế để bác bỏ các luận điểm sai trái của Trung Quốc về Biển Đông, trong đó có hoạt động của tàu Hải Dương 8 và cái gọi là "Đường chín đoạn".

TS Nguyễn Bá Sơn, Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam, ngày 24-8 đã gửi thư ngỏ tới Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc, GS Hoàng Tiến, trong đó nhấn mạnh toàn thể hội viên Hội Luật Quốc tế Việt Nam hết sức lo ngại về những diễn biến căng thẳng gần đây do Trung Quốc gây nên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở phía nam Biển Đông.

Tàu Địa chất Hải Dương 8 hoạt động gần bờ biển Trung Quốc năm 2018. Ảnh: Schottel.

Trong bức thư được đăng tải trên website của Hội Luật quốc tế Việt Nam, TS Nguyễn Bá Sơn nêu rõ, những hoạt động gần đây của tàu Hải Dương vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và đi ngược lại thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc.

Trao đổi góc độ pháp lý quốc tế khách quan của hoạt động hiện tại của tàu Hải Dương 8, TS Nguyễn Bá Sơn cho biết, thứ nhất, khu vực mà tàu Hải Dương 8 đang hoạt động nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, được xác định trên cơ sở Điều 57 và Điều 76 của UNCLOS.

"Đây hoàn toàn không phải khu vực chồng lấn hoặc có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc", TS Nguyễn Bá Sơn viết trong thư.

TS Nguyễn Bá Sơn. 

Theo quy định của UNCLOS, quyền của quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa có tính đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay khai thác tài nguyên ở các vùng này thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động này nếu không được phép của các quốc gia ven biển.

"Mọi hoạt động thăm dò, khai thác, khảo sát, nghiên cứu đối với tài nguyên ở đó đều phải được sự chấp thuận rõ ràng của quốc gia ven biển", bức thư viết.

Thứ hai, theo TS Nguyễn Bá Sơn, một số chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc thường viện dẫn "Đường chín đoạn" để biện minh cho yêu sách về "các quyền lịch sử" hay "một danh nghĩa lịch sử" của Trung Quốc tại các vùng biển nằm bên trong "Đường chín đoạn" này.

Mặt khác, Trung Quốc cũng dựa vào UNCLOS để đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa mở rộng tính từ các quần đảo ở Biển Đông mà Trung Quốc là một trong các bên yêu sách chủ quyền. Với những viện dẫn nêu trên, Trung Quốc cho rằng khu vực biển mà tàu Hải Dương 8 và các tàu khác của Trung Quốc đang hoạt động là vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.

Tuy nhiên, điều này hoàn toàn phi lý. Không có bất cử cơ sở pháp lý nào theo luật pháp quốc tế và UNCLOS cho "Đường chín đoạn", Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới cũng chưa từng công nhận bất kỳ một hàm ý về phạm vi quyền đối với vùng biển được gán cho "Đường chín đoạn" này.

"Bên cạnh đó, cũng không thể coi vùng biển mà Hải Dương 8 đang hoạt động là vùng biển của quần đảo Trường Sa vì quần đảo Trường Sa không phải là một quốc gia quần đảo, do đó không đáp ứng tiêu chuẩn mà UNCLOS quy định để có thể vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh toàn bộ Trường Sa và từ đó yêu sách các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo", bức thư nêu rõ.

Kể từ khi có Phán quyết ngày 12-7-2016 của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc thì những tranh luận trên đã được làm sáng tỏ.

Phán quyết khẳng định rằng:

(i) không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại vùng biển bên trong "Đường chín đoạn";

(ii) căn cứ vào tình trạng tự nhiên của các thực thể luôn nổi tại quần đảo Trường Sa, không thực thể nào có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa riêng;

(iii) luật pháp quốc tế không cho phép Trung Quốc về đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng;

(iv) các thực thể lúc chìm lúc nổi (và các thực thể ngầm) không phải là đối tượng yêu sách chủ quyền.

Thứ ba, một số chuyên gia luật quốc tế của Trung Quốc sử dụng đoạn mở đầu của UNCLOS "khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước (UNCLOS) sẽ tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung" để biện minh cho các lập luận về yếu tố lịch sử và yêu sách mập mờ nhằm tạo nên các vùng biển chồng lấn của Trung Quốc với các nước ven Biển Đông.

Tuy nhiên, Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam khẳng định, "các vấn đề về phạm vi và quy chế của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa cũng như vấn đề quốc gia quần đảo, đều là vấn đề được UNCLOS quy định rõ ràng, không phải là các vấn đề không được quy định".

Việt Nam và Trung Quốc đều là các quốc gia thành viên của UNCLOS, tự nguyện chấp nhận sự ràng buộc của Công ước, nên mọi cách giải thích, áp dụng trái với quy định của Công ước đều không có giá trị. Điều này củng đã được Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc xác nhận.

Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam khẳng định, tham gia Hội Luật quốc tế Việt Nam hay Hội Luật quốc tế Trung Quốc đều là những người dành cả đời cho việc nghiên cứu, phổ biến và thực hành luật quốc tế.

"Chúng ta đều nhớ tới lời thề trang trọng phục vụ cho công lý của mình khi vinh dự được mang danh hiệu cao quý là luật gia", TS Nguyễn Bá Sơn nói, nhấn mạnh "nhiệm vụ chung của chúng ta" là "bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự pháp lý quốc tế, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào đối với những nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế".

Chủ tịch Hội Luật Quốc tế Việt Nam nhấn mạnh tất cả các thành viên của hội nguyện sẽ sử dụng tất cả những biện pháp được luật quốc tế quy định, đặc biệt là UNCLOS đề bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Tổ quốc mình và mong được cùng Hội Luật Quốc tế Trung Quốc trao đổi những vấn đề khoa học luật quốc tế với mục đích thượng tôn trật tự pháp lý quốc tế, góp phần vào việc gìn giữ hòa bình, ổn định trên Biên Đông, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc.

Thiện Minh
.
.
.