Trách nhiệm của NSDLĐ và quyền lợi của NLĐ khi xảy ra tai nạn lao động

Thứ Ba, 26/11/2013, 13:45
Trong vụ cháy quán bar Zone 9 tại Hà Nội đã làm 6 người lao động tại khu vực này bị thiệt mạng chưa kể bị thương tích. Xin hỏi quý báo, pháp luật quy định người sử dụng lao động có trách nhiệm như thế nào đối với những người lao động bị tai nạn lao động trong quá trình đang làm việc? Người lao động bị tai nạn lao động có thể được hưởng những quyền lợi gì? (Nguyễn Văn Quý, Từ Liêm - Hà Nội).

Trả lời: Theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Lao động 2012 thì: Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Quy định này được áp dụng đối với cả người học nghề, tập nghề và thử việc. Người bị tai nạn lao động phải được cấp cứu kịp thời và điều trị chu đáo. Tất cả các vụ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các sự cố nghiêm trọng tại nơi làm việc đều phải được khai báo, điều tra, lập biên bản, thống kê và báo cáo định kỳ theo quy định của Chính phủ.

Khi người lao động bị tai nạn lao động, người sử dụng lao động có các trách nhiệm sau đây: Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế. Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động theo quy định. (Điều 144 Bộ luật Lao động 2012)

Căn cứ Điều 145 Bộ luật Lao động 2012, khi bị tai nạn lao động, người lao động có các quyền sau:

1. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

2. Người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội, thì được người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên.

3. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau: a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%; b) Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.

4. Trường hợp do lỗi của người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 3 Điều này.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2006 thì người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc; b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động; c) Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý; 2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 Điều này.

Căn cứ Điều 42, Điều 43, Điều 46 Luật Bảo hiểm xã hội 2006, người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được quy định cụ thể tại các điều luật trên.

Đối với người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì theo quy định tại Điều 47 Luật Bảo hiểm xã hội 2006, thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng ba mươi sáu tháng lương tối thiểu chung.

Thời điểm hưởng trợ cấp quy định tại các điều 42, 43 và 46 của luật này được tính từ tháng người lao động điều trị xong, ra viện theo quy định tại Điều 44 Luật Bảo hiểm xã hội 2006

Thạc sỹ, luật sư Quản Văn Minh (Công ty Luật Số 5 – Quốc gia, website: www.luatsuvietnam.vn )
.
.
.