Trung bình người dân Việt tiêu thụ 41,3kg nhựa mỗi năm

Thứ Sáu, 11/10/2019, 15:32
Ngày 11-10 tại Hà Nội, Trong khuôn khổ hoạt động của Liên minh về môi trường và biến đổi khí hậu ( VECCA), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam ( VUSTA) phối hợp với Tổ chức Hợp tác phát triển quốc tế Đức (GIZ) tổ chức hội thảo khoa học: Phát huy vai trò của khoa học và công nghệ trong vấn đề quản lý và giảm thải rác nhựa.

PGS.TS. Hoàng Thị Thu Hương, Viện KH&CN Môi trường, Trường Đại học Bách Khoa cho biết, đến năm 2019, thế giới đã sản xuất khoảng 8,3 tỷ tấn nhựa trong đó 6,3 tỷ tấn hiện là rác thải. Đặc biệt, 79% trong 6,3 tỷ tấn đó giờ đang nằm trong các bãi rác và môi trường tự nhiên.

Hiện Việt Nam được nhận định là 1 trong 5 quốc gia xả rác thải nhựa nhiều nhất, với khoảng 1,8 triệu tấn ra môi trường mỗi năm. Chỉ số tiêu thụ nhựa trên đầu người cũng tăng nhanh chóng từ 3,8kg/người/năm (1990) lên 41,3kg/năm/người vào năm 2018. 

Trong khi nhập khẩu phế liệu nhựa vẫn tăng theo cấp số nhân, năm 2016 là 18,548 tấn, năm 2017 là 90,839 tấn và 9 tháng năm 2018 là 175.000 tấn. Trong khi đó, tỷ lệ nhựa tái chế chỉ đạt 27%. 

Thống kê của Bộ TN&MT cho thấy, chỉ tính riêng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, mỗi ngày đã thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi nilon. Riêng Hà Nội, thải ra 4.000- 5.000 tấn rác mỗi ngày, trong đó rác thải nilon chiếm 7-8%.

Hiện Việt Nam được nhận định là 1 trong 5 quốc gia xả rác thải nhựa nhiều nhất, với khoảng 1,8 triệu tấn ra môi trường mỗi năm. 

Việc lạm dụng sử dụng túi ni lông khó phân huỷ và các sản phẩm nhựa, đặc biệt là đồ nhựa dùng một lần đã và đang để lại những hậu quả khôn lường đối với môi trường. 

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, trung bình để phân huỷ hoàn toàn các chất thải từ nhựa và ni lông phải mất hàng trăm, thậm chí tới hàng nghìn năm. Rác thải nhựa nằm rất nhiều dưới đáy đại dương và sẽ trở thành một phần thức ăn đầu độc các sinh vật biển.

Đánh giá về thực trạng ô nhiễm rác thải nhựa tại các khu du lịch biển- đảo Việt Nam, TS. Dư Văn Toán và ThS. Nguyễn Thuỳ Vân (Viện Nghiên cứu phát triển du lịch) cho rằng, khu vực biển- đảo thu hút khoảng 60% lượng du khách quốc tế; 50 %  khách nội địa và đóng góp khoảng 60% tổng thu từ du lịch của cả nước. 

Tuy nhiên, tình trạng quá tải tại các khu, điểm du lịch biển- đảo đã làm gia tăng chất thải từ các hoạt động du lịch đặc biệt là chất thải rắn mà trong đó chất thải nhựa chiếm tới 60%. Trong khi đó, tỷ lệ thu gom rất thải rắn chỉ đạt khoảng 60-70%, vào mùa du lịch cao điểm, tỷ lệ này còn thấp hơn. 

Tại Quảng Ninh, Phú Quốc hay Cát Bà rác thải phát sinh mỗi ngày rất lớn, nhưng chỉ thu gom được rất ít. Hiện, tại Vũng Tàu các bãi tắm ven biển thành phố đã phải đón nhận hàng trăm tấn từ đại dung đã theo thuỷ triều trôi dạt vào. Tình trạng này đã gây ô nhiễm môi trường và mất đi vẻ đẹp cảnh quan tại các bãi tắm.

Để giải quyết bài toán này đã có nhiều nghiên cứu và giải pháp về vật liệu thay thế được đưa ra. 

Tại hội thảo, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã kêu gọi các cấp, các ngành và cộng đồng cùng thống nhất nhận thức, chung tay hành động chống rác thải, tiêu thụ nhựa, túi nilon sử dụng 1 lần. Đồng thời, các ngành cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tác hại của chất thải nhựa, túi nilon sử dụng một lần đối với kinh tế - xã hội, môi trường và sức khỏe con người.

Để công tác quản lý rác thải nói chung và rác thải nhựa nói riêng các tỉnh, thành phố rất cần có bộ số liệu về rác thải một cách chính xác. Bên cạnh đó, nếu áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả phí trong quản lý rác thải thì số liệu phát thải là điều kiện tiên quyết để xác định nguồn gốc, chủng loại, số lượng rác thải.

Ông Vũ Sĩ Tuấn, Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ TN&MT) cho biết, để hạn chế được rác thải nhựa thì cần quản lý được rác thải nhựa đại dương từ nguồn thải trên đất liền và nguồn thải ở biển theo cách tiếp cận của nền kinh tế tuần hoàn, đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về giảm thiểu rác thải nhựa đại dương. Tạo sự đột phá và chuyển biến căn bản về nhận thức, ứng xử và hành vi của toàn cộng đồng trong sản xuất, tiêu dùng, thải bỏ sản phẩm nhựa và thu gom, xử lý rác thải nhựa.
Lưu Hiệp
.
.
.