Từ phát triển vùng liên kết nguyên liệu nông, thủy sản đến chiến lược tăng lợi thế cạnh tranh

Thứ Hai, 06/01/2020, 11:05
Tập đoàn Sao Mai là điểm tựa cho hộ dân nuôi cá tra, trồng mì và các sản phẩm nông nghiệp khác yên tâm sản xuất. Mô hình “liên kết phát triển vùng nguyên liệu” của Tập đoàn Sao Mai là cách làm thực tế hóa xúc tác sức thuyết phục cho chủ trương lớn của Chính phủ về xây dựng Nông thôn mới.

Ngày 6-1, tại TP Long Xuyên (An Giang), Tập đoàn Sao Mai tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác phát triển vùng nguyên liệu nông, thủy sản niên vụ 2019.

Ông Lê Thanh Thuấn – Tổng Giám đốc Tập đoàn Sao Mai phát biểu tại Hội nghị tổng kết.

Năm 2019, sản lượng của vùng nuôi liên kết rộng khoảng 350ha của Tập đoàn Sao Mai vẫn đạt hơn 10.000 tấn cá/tháng, đảm bảo cung cấp nguyên liệu ổn định cho 3 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu của Công ty IDI (thành viên Sao Mai Group) hoạt động ổn định. 

12 năm duy trì và ngày càng khẳng định hướng đi phù hợp, mô hình liên kết với nông dân đã giúp công ty hoàn toàn chủ động được nguồn nguyên liệu để linh hoạt thực hiện chiến lược mở rộng thị trường và nâng cao năng lực sản xuất, tăng sức cạnh tranh trên thị trường cá da trơn thế giới. Nhiều năm liên tục, Công ty IDI giữ vững vị trí TOP đầu trong các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản lớn nhất Việt Nam, đóng góp tích cực vào ngành hàng cá tra của đất nước.
Công ty IDI (công ty thành viên thuộc Tập đoàn Sao Mai) giữ vững vị trí TOP đầu trong các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản lớn nhất Việt Nam.

Năm qua, mặc dù giá cá tra sụt giảm mạnh, cụ thể giá cá tra thương phẩm đang dao động từ 17.000 -18.000 đồng/kg khiến cho hàng loạt hộ nuôi ĐBSCL điêu đứng tìm doanh nghiệp tiêu thụ. Riêng các thành viên liên kết với Sao Mai vẫn “sống khỏe” khi được Tập đoàn mua vào theo hợp đồng với giá 25.000 đồng/kg. Ông Lê Thanh Thuấn – Tổng Giám đốc Tập đoàn Sao Mai, chia sẻ: “Tập đoàn đã chi 600 - 700 tỷ đồng để bù lỗ vào sự chênh lệch khi giá cá đang rơi tự do như hiện nay. Sao Mai chấp nhận chịu thiệt để giữ chữ tín trong kinh doanh một khi cam kết bao tiêu cá thương phẩm cho hộ nuôi. Góp phần ổn định nghề nuôi cá tra ở khu vực”.

Ngoài ra, niên vụ 2018, Sao Mai đã chi hơn nửa tỷ đồng để tài trợ vốn, giống, chuyển giao phương thức canh tác cho 17 hộ dân người Khmer tham gia mô hình trồng mì (KM140) khảo nghiệm ở Tịnh Biên (An Giang) – vùng đất nông nghiệp kém hiệu quả. Vụ đầu tiên, cây khoai mì đã cho mùa bội thu với năng suất bình quân 35tấn/ha và Tập đoàn Sao Mai thực hiện bao tiêu. Từ những thành công bước đầu niên vụ 2019, diện tích trồng mì KM140 nhanh chóng nhân rộng lên 100ha với hơn 80 hộ dân liên kết. 

Dự kiến vào tháng 2-2020, nông dân sẽ bước vào thu hoạch đại trà và dự báo năng suất sẽ đạt từ 40 tấn/ha trở lên, Sao Mai tiếp tục bao tiêu cao hơn giá thị trường. Theo kế hoạch, diện tích khoai mì KM140 sẽ được Tập đoàn phát triển mạnh khoảng 5.000ha trên địa bàn 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn của vùng Bảy Núi. Dự kiến đến năm 2022, sản lượng khoai mì sẽ đảm bảo cung cấp 100% nguồn nguyên liệu cho Nhà máy chế biến thức ăn thủy sản (Sao Mai Super Feed) đang được nâng công suất từ 375.000 tấn/năm (hiện nay) lên 500.000 tấn/năm.
Tháng 7-2019, Tập đoàn Sao Mai đã phát điện thương mại thành công Nhà máy điện năng lượng mặt trời ở huyện Tịnh Biên (tỉnh An Giang).
Đặc biệt, vào giữa năm 2019, Tập đoàn Sao Mai đã phát điện thương mại thành công Nhà máy điện năng lượng mặt trời ở huyện Tịnh Biên. Sao Mai Solar PV1 trong giai đoạn I có công suất 104 MW, trên diện tích 130ha, vốn đầu tư gần 3.000 tỷ đồng. Hiện nay, bên cạnh những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật  được đào tạo chuyên môn từ Nhật Bản còn có nhiều lao động người dân tộc Khmer đang làm việc trong nhà máy với mức thu nhập từ 200.000 - 300.000 đồng/ngày/người. 

Giai đoạn II của dự án có vốn đầu tư hơn 3.000 tỷ đồng, công suất 106MW, trên tích 145ha sẽ được Sao Mai xúc tiến xây dựng trong 2 năm tới. Theo kế hoạch, cánh đồng pin năng lượng mặt trời sẽ trở thành mô hình du lịch đặc biệt kết hợp với phát triển nông nghiệp sạch dưới tầng pin. Sao Mai Solar ngoài việc cung cấp điện sinh hoạt, sản xuất cho người dân, giảm hiệu ứng khí thải CO2, đảm bảo nguồn năng lượng sạch cho quốc gia và góp phần quan trọng ổn định chính trị, phát triển kinh tế biên giới Tây Nam.

Trần Lĩnh - Thành Nhân
.
.
.