Những công nghệ mới trong điều trị vô sinh:

Thêm niềm hy vọng cho những cặp vợ chồng hiếm muộn

Chủ Nhật, 21/04/2013, 12:00
Có một mụn con là niềm khao khát của hàng nghìn cặp vợ chồng hiếm muộn tại Việt Nam. 15 năm qua, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở nước ta đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho hàng nghìn cặp vợ chồng hiếm muộn.

Tại Hội nghị Hỗ trợ sinh sản và mô phôi toàn quốc năm 2013 diễn ra ngày 20/4 tại Hà Nội đã đưa ra nhiều thành tựu mới trong điều trị vô sinh ở Việt Nam, mở ra niềm hy vọng cho những cặp vợ chồng hiếm muộn.

Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra lỗ hổng trong kiến thức về khả năng sinh sản là nguyên nhân chính khiến chị em chậm chọn lựa điều trị vô sinh.

Khi mà tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam đang gia tăng thì có một bộ phận các cặp vợ chồng bị thiếu thông tin, không nhận biết được tình trạng sinh sản của mình, dẫn tới điều trị muộn. Theo PGS.TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản TW, thì nhiều cặp vợ chồng ở Việt Nam có thể không nhận biết được tình trạng sinh sản của họ.

Đối với phụ nữ, nhìn chung họ tin tưởng rằng, cơ hội có thai của họ hoàn toàn cao. Mặc dù đã cố gắng có thai trong vòng 6 tháng vẫn chưa thành công, nhưng 70% phụ nữ được khảo sát không hề nghi ngờ về tình trạng sinh sản của họ. Có phụ nữ thậm chí không tin rằng chồng của họ có thể có vấn đề về sinh sản. 83% phụ nữ Việt Nam không có nghi ngờ gì về khả năng sinh sản của người chồng. Chỉ có 47% phụ nữ Việt Nam có nghi ngờ về vấn đề sinh sản được chẩn đoán.

“Rất nhiều cặp vợ chồng Việt Nam “trong bóng tối” nhưng vẫn duy trì tình trạng lạc quan nói chung và không tìm kiếm việc điều trị nhằm cải thiện những cơ hội có thai”, PGS.TS Nguyễn Viết Tiến cho biết.

Thiếu sót thông tin về sinh sản đối với nhiều cặp vợ chồng ở Việt Nam là rất lớn. Qua khảo sát của ngành Y tế, có tới 75% cặp vợ chồng không biết béo phì có thể làm giảm khả năng sinh sản; 56% không biết rằng người đàn ông có thể vô sinh ngay cả khi anh ta có thể sản xuất tinh trùng; 45% không biết rằng đàn ông có thể vô sinh cho dù anh ta có thể đạt được sự cương dương; 60% không biết rằng người phụ nữ không có kinh nguyệt thì không còn khả năng sinh sản; 54% không biết rằng các cặp vợ chồng được xem là vô sinh nếu họ không có thai sau 1 năm cố gắng; 48% không biết rằng phụ nữ ở tuổi 40 ít có cơ hội có thai hơn ở tuổi 30.

PGS.TS Nguyễn Viết Tiến cũng chỉ ra rằng, cứ 1 trong 3 phụ nữ Việt Nam được khảo sát không biết trung tâm điều trị hiếm muộn gần nhất của họ ở đâu. 69% phụ nữ ở Việt Nam được khảo sát nhận biết điều trị hiếm muộn là rất đắt… “Nhận thức kém về sinh sản và nguyên nhân hiếm muộn là rất quan trọng, dấu hiệu rõ nhất là điều đó làm giảm cơ hội thành công của người phụ nữ để có em bé”, PGS.TS Nguyễn Viết Tiến kết luận.

Cách đây đúng 15 năm, ngày 30/4/1998, các em bé thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên của Việt Nam ra đời khỏe mạnh, mang lại niềm vui vô bờ bến của các cặp vợ chồng lần đầu tiện được làm bố mẹ sau bao năm chờ đợi.

Theo GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ thì từ những ca đầu tiên còn đầy khó khăn đó, 15 năm sau, thành tựu về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Việt Nam đã áp dụng thành công hầu hết các phác đồ mới trong hỗ trợ sinh sản trong thời gian ngắn và theo kịp trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Hàng loạt trung tâm hỗ trợ sinh sản ra đời ở các thành phố lớn và các bệnh viện lớn, đáp ứng cơ bản nhu cầu điều trị của người dân. Việt Nam đã trở thành nước thực hiện hỗ trợ sinh sản nhiều nhất trong khu vực Đông Nam Á.

Các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực sản khoa ở Việt Nam đã có những nghiên cứu sâu về các biện pháp hỗ trợ sinh sản tiên tiến nhất hiện nay để ngày càng thu hẹp khoảng cách có con cho các cặp vợ chồng tưởng như đã hết niềm hy vọng.

Một trong những công nghệ mới mà Trung tâm Công nghệ phôi, Học viện Quân y thực hiện thành công là nuôi cấy tinh tử. Đây là một tin vui với những trường hợp nam không có tinh trùng. Nói như PGS.TS Quản Hoàng Lâm, Giám đốc trung tâm, là “biến cái không thể thành cái có thể”.

Nuôi cấy tinh tử tại Trung tâm Công nghệ phôi, Học viện Quân y.

Hiện ở nước ta chưa có nghiên cứu nào về cấu trúc, siêu cấu trúc tinh hoàn của ngươi không tinh trùng và nuôi cấy tế bào dòng tinh để vi tiêm tinh trùng vào bào tương trứng. Vì vậy, nghiên cứu nuôi cấy tế bào dòng tinh phân lập từ tinh hoàn là một giải pháp rất hiệu quả trong điều trị vô sinh nam.

Thạc sĩ Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và sức khỏe sinh sản, Khoa Y, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cho biết, nghiên cứu của ông cùng cộng sự gần đây cho thấy, kết quả chuyển phôi rã đông tốt hơn chuyển phôi tươi. Kết quả này có thể dẫn đến nhiều thay đổi trong thực hành lâm sàng trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản trong tương lai.

Theo Ths.BS Lê Thị Minh Châu, Phó trưởng Khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Từ Dũ thì với trường hợp bệnh nhân phải kích thích buồng trứng nhưng lại đáp ứng kém buồng trứng là một thử thách lớn cho người điều trị. Bởi vì đây là một trong những yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến kết quả thành công của chương trình hỗ trợ sinh sản.

Qua nghiên cứu có nhiều phác đồ điều trị, tuy nhiên, một tín hiệu vui là với các bằng chứng hiện tại, sử dụng phác đồ dài GNRHa có thể là lựa chọn mang lại thành công hơn cả.

* Theo Tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia châu Á như Trung Quốc, Nhật, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Việt Nam có tỷ lệ sinh sản xuống dưới mức báo động.

Bốn quốc gia châu Á có nền kinh tế thịnh vượng nhất như Nhật, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan có tỷ lệ sinh đẻ thấp nhất thế giới. Tại Việt Nam, vô sinh nam chiếm tỷ lệ 40%. Việc thăm khám sớm và điều trị kịp thời là vô cùng cần thiết để dẫn tới có con như mong muốn.

* Nhiều phụ nữ, đàn ông vô sinh mà không biết, đặc biệt là vô sinh thứ phát. Theo các chuyên gia về sản khoa, hiện nay có rất nhiều công nghệ tiên tiến trong điều trị vô sinh ở Việt Nam và mang lại kết quả cao.

PGS.TS Nguyễn Viết Tiến cho biết, ước tính vô sinh ở nước ta chiếm 7% dân số, đây là một tỷ lệ cao. Do vậy, để tăng cơ hội làm cha, làm mẹ thì các cặp vợ chồng cần phải hiểu biết về tình trạng sinh sản; cần giáo dục nguyên nhân gây nên tình trạng vô sinh, giúp họ gia tăng hiểu biết xung quanh về những vấn đề sinh sản nam giới.

Đặc biệt phải kịp thời thăm khám và điều trị sớm, cơ hội thành công sẽ càng cao.

H.P.

Trần Hằng – Thu Phương
.
.
.