Hậu lao động xuất khẩu: Về nước tiêu hết tiền, lại thất nghiệp

Thứ Tư, 30/10/2013, 07:45
Không có kỹ năng quản trị đồng tiền, với nhiều gia đình, số tiền tích cóp sau 3 đến 5 năm làm việc ở nước ngoài, thậm chí là 10 năm, cũng chỉ dành cho việc xây nhà mới, sắm các thiết bị phục vụ sinh hoạt mà không thực hiện được một sự thay đổi căn bản nào cho tương lai. Cá biệt có một số trường hợp, tiền tiết kiệm này không những không mang lại hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn gây ra những vấn đề về tệ nạn xã hội như người thân của họ sử dụng vào các hoạt động phi pháp như đánh bạc, rượu chè...

Từ số ít chuyên gia Việt Nam bắt đầu ra nước ngoài làm việc ở những năm 1980, cho đến nay, Việt Nam đã có trên 500 ngàn lao động đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, gửi về nước khoảng 2 tỷ USD hằng năm. Theo một nghiên cứu gần đây của Viện Khoa học lao động xã hội về tình hình đời sống và việc làm của hơn 1.400 lao động trở về sau khi đi làm việc ở nước ngoài thì trên thực tế việc áp dụng các kinh nghiệm, tay nghề tích lũy được ở nước ngoài đối với việc làm trong nước không mấy hiệu quả.

Hiện ở ta có khoảng 66,33% trong tổng số đó làm công việc giản đơn; số người sau khi về nước mở doanh nghiệp, làm quản lý chỉ chiếm 0,8%; những việc làm có tay nghề công nhân kỹ thuật bậc cao chỉ có 0,3%. Cùng với đó, người lao động đi XKLĐ trở về rất hạn chế được tiếp cận với các dịch vụ tư vấn nghề nghiệp, giúp đỡ họ có thể tìm được việc làm phù hợp. Hầu hết người lao động phải tự bươn chải, tạo dựng cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc tìm việc làm mới (tương tự như trước khi đi làm việc ở nước ngoài).

Người lao động được đào tạo nghề trước khi đi XKLĐ. Ảnh minh họa: TTXVN.

Những kinh nghiệm làm việc, tác phong công nghiệp, cũng như kỹ năng tay nghề và ngoại ngữ của người lao động mặc dù đã được cải thiện nâng lên đáng kể nhưng lại không được tận dụng và phát huy. Và như thế, theo cách đánh giá của các chuyên gia về lao động, việc làm, thì đây là quy trình không khép kín, mới chỉ tạo được phần ngọn của công cuộc xóa đói giảm nghèo. Không có kỹ năng quản trị đồng tiền, với nhiều gia đình, số tiền tích cóp sau 3 đến 5 năm làm việc ở nước ngoài, thậm chí là 10 năm, cũng chỉ dành cho việc xây nhà mới, sắm các thiết bị phục vụ sinh hoạt mà không thực hiện được một sự thay đổi căn bản nào cho tương lai. Cá biệt có một số trường hợp, tiền tiết kiệm này không những không mang lại hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn gây ra những vấn đề về tệ nạn xã hội như người thân của họ sử dụng vào các hoạt động phi pháp như đánh bạc, rượu chè, gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.

Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB&XH cho biết, có một số nhưng rất ít biết dùng một phần tiền tiết kiệm để đầu tư sản xuất, kinh doanh, tự tạo việc làm cho bản thân và các lao động khác như một số thực tập sinh ở Nhật, lao động Hàn Quốc về. Có trường hợp rất thành đạt trở thành giám đốc doanh nghiệp (DN) sản xuất nhỏ, cũng có người đi làm cho DN nước ngoài tại Việt Nam với mức lương khá cao, thiết lập được công việc kinh doanh buôn bán với các đối tác nước ngoài có quan hệ từ khi làm việc ở nước bạn, có người tiếp tục sang nước khác làm việc.

“Khi về nước, điều lo lắng nhất là việc làm” là tâm sự của các học viên tại lớp học hỗ trợ lao động làm việc tại Hàn Quốc về nước đúng hạn.

Thời gian gần đây, đã xuất hiện một số hoạt động hỗ trợ lao động hồi hương như chương trình đào tạo và giới thiệu việc làm cho các lao động ở Hàn Quốc trở về đúng hạn để giới thiệu cho các DN Hàn Quốc tại Việt Nam của Cơ quan Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc tại Việt Nam (HRD); các hội chợ việc làm do Trung tâm Lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB&XH đã phối hợp với HRD tại một số địa bàn trọng điểm. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này cũng chưa đạt được kết quả khả quan do mặt bằng tiền lương mà các DN này trả thấp.

Ông Đào Công Hải, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước chia sẻ, hậu XKLĐ là một vấn đề quan trọng quyết định hiệu quả của việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Các dịch vụ hỗ trợ hiện còn đơn lẻ, chưa tạo được sự kết nối thường xuyên.

Lao động Việt Nam tại Nhà máy Nakashima, Nhật Bản.

Trong khi nhìn sang Philippines, một trong những quốc gia XKLĐ lớn nhất Đông Nam Á, số lao động có mặt ở nước ngoài bình quân khoảng 5 triệu người và thu nhập trung bình đạt khoảng 18-20 tỷ USD/năm. Chính phủ Philippines đã tham gia ngay từ khâu tuyển chọn, đào tạo trước khi đi cho đến khi người lao động trở về tiếp tục được thụ hưởng các chương trình hỗ trợ người lao động hồi hương, như: sinh kế và phát triển nghề nghiệp, tư vấn kinh doanh hoặc đào tạo kinh doanh cho những người đủ vốn và muốn mở kinh doanh khi về nước (thông qua Cục Phát triển thương nghiệp vừa và nhỏ).

Cục Quản lý việc làm ngoài nước còn phối hợp với ILO để có những dự án thành lập các trung tâm đào tạo ở các vùng có nhiều lao động xuất khẩu. Chính phủ cũng đưa ra chính sách cho vay sinh kế đối với các gia đình là 100.000 Peso (khoảng 1.850 USD), cho vay hồi cư là 20.000 Peso (370 USD) và tối đa là 50.000 Peso (khoảng 925 USD đối với các khoản vay trợ giúp nhóm; đặt quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trong việc tạo điều kiện dễ dàng về tín dụng và sinh kế cho người lao động hồi hương.

Ông Hải cho rằng, cần giao trách nhiệm cho Sở LĐ-TB&XH các địa phương nắm chắc nguồn lực lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về, có phân tách theo địa bàn, ngành nghề, trình độ, để có kế hoạch và giải pháp đào tạo lại, sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực này

Thu Uyên
.
.
.