Bao giờ xử lý sai phạm ở Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn?

Thứ Ba, 17/01/2006, 13:23

Sau khi dịch vụ phòng khám ngoài giờ chính thức bị đóng cửa, ông Xuyền lại “đẻ” ra cả một Khoa Chấn thương chỉnh hình (CTCH) và Bỏng với 20 giường bệnh được đặt ở một vị trí bề thế nhất của Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn, khi chưa được sự cho phép của cơ quan quản lý.

Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn (BVĐKSG) tọa lạc tại số 125, Lê Lợi, quận 1 Tp. HCM tiền thân là Trung tâm cấp cứu Sài Gòn nhưng sau khi chuyển nhiệm vụ cấp cứu về Bệnh viện Trưng Vương thì nơi này đảm nhiệm chức năng là một bệnh viện đa khoa. Đã từ lâu, cơ sở hạ tầng BVĐKSG xuống cấp khá nghiêm trọng mà không có sửa chữa do UBND Tp.HCM đã có kế hoạch di dời bệnh viện sang địa điểm mới.

Tháng 11/2002, BVĐKSG đã tự ý đưa vào hoạt động dịch vụ phòng khám ngoài giờ mà không xin phép Sở Y tế. Sau đó, bác sĩ Xuyền đưa hai “đệ tử ruột” của mình là bác sĩ Dương Anh Tuấn và bác sĩ Đỗ Quang Trí thuộc biên chế của bệnh viện để phụ trách phòng khám.

Tuy nhiên, thay vì giám đốc bệnh viện ra quyết định điều động thì ông Xuyền lại ký một hợp đồng hợp tác làm ăn giữa một bên là giám đốc, một bên là bác sĩ Dương Anh Tuấn, Phó trưởng khối liên chuyên khoa. Từ đây, bác sĩ Tuấn trực tiếp đứng ra ký hợp đồng thuê bác sĩ ở bên ngoài để phục vụ cho phòng khám như của riêng mình. Ngoài ra, sau khi được giám đốc “bật đèn xanh”, bác sĩ Trí tự ý tháo dỡ di dời 3 máy nha khoa của phòng khám liên chuyên khoa chuyển ra phòng khám ngoài giờ.

Đặc biệt, bệnh viện còn hào phóng hỗ trợ 70 triệu đồng để phòng khám ngoài giờ sửa chữa phòng ốc, mua sắm trang thiết bị. Trong khi đó, dịch vụ phòng khám ngoài giờ này đều do bác sĩ Tuấn điều hành, tự thu chi, không thông qua hệ thống kế toán tài chính của bệnh viện, hàng tháng chỉ nộp về cho Phòng Tài chính của bệnh viện một khoản gọi là tiền khoán. Sau khi đi vào hoạt động khoảng 4 tháng, bệnh viện mới gởi phương án trình đến Sở Y tế để xin phép và khi Sở chưa đồng ý, phòng khám vẫn duy trì hoạt động cho đến ngày 30/4/2003 mới ngưng do bị thua lỗ (?!).

Theo như kết quả thanh tra, việc cung ứng thuốc gây mê để sử dụng mổ cho các bệnh nhân dịch vụ ngoài giờ đều giao cho bác sĩ Dương Anh Tuấn và kỹ thuật viên Mai Gia Cường (nhân viên Khoa Gây mê hồi sức) thực hiện. Theo ông Cường tường trình, một phần thuốc do các trình dược viên biếu, một phần lấy từ những lọ thuốc dư sau khi ông không còn hợp tác với một bệnh viên đa khoa tư nhân để đưa vào sử dụng! Việc sử dụng thuốc gây mê không qua hệ thống quản lý dược của bệnh viện, nguồn gốc thuốc không rõ ràng là một việc làm sai trái và rất nguy hiểm mà dư luận đang yêu cầu chưa được làm sáng tỏ (về số lượng sử dụng) để xử lý nghiêm.

Sau khi dịch vụ phòng khám ngoài giờ chính thức bị đóng cửa, ông Xuyền cùng một số bác sĩ bị kỷ luật. Vậy mà tháng 4/2004, lãnh đạo bệnh viện cả gan “đẻ” ra cả một Khoa CTCH và Bỏng với 20 giường bệnh được đặt ở một vị trí bề thế nhất của bệnh viện, khi chưa được sự cho phép của cơ quan quản lý.

Ông Xuyền đã mạnh dạn ký quyết định số 72/BVS-TC ngày 23/3/2004 để điều động bác sĩ Nguyễn Thanh Phong (Khoa Ngoại tổng hợp 1) giữ chức trưởng khoa, bác sĩ Phạm Văn Đôi (Khoa Ngoại tổng hợp 2) phó trưởng khoa cùng 7 cán bộ khác đến làm việc tại Khoa CTCH và Bỏng.

Chưa nói đến việc không được Sở Y tế cho phép, về chuyên môn, với nhân sự chắp vá như thế thì Khoa CTCH không thể chuyên môn sâu so với Khoa CTCH ở các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa hạng 1. Trong đó, về phẫu thuật liệt tùng thần kinh cánh tay thì bác sĩ có chuyên môn này chỉ đếm trên đầu ngón tay đang công tác ở các bệnh viện đầu ngành.

Có lẽ chính vì thế mà Giám đốc Xuyền đã “cầu cứu” xin được sự hỗ trợ về mặt chuyên môn của một bệnh viện khác. Và nơi này đã hỗ trợ đồng nghiệp bằng cách cử bác sĩ sang BVĐKSG 2 ngày trong tuần. Thế cho nên, trong danh sách gần 20 bệnh nhân mổ liệt tùng thần kinh cánh tay tại BVĐKSG mà chúng tôi có được đều do bác sĩ của bệnh viện khác mổ. Đáng nói hơn là hầu hết những bệnh nhân này được “lôi kéo” từ chỗ khác sang. Và trong khi tham gia mổ tại BVĐKSG, hiển nhiên phẫu thuật viên không thể làm không công nên vấn đề thu chi tài chính ở Khoa CTCH  là rất “nhạy cảm”, cần sớm được làm sáng tỏ.

Cái sai của BVĐKSG trong việc thành lập Khoa CTCH là đã rõ mười mươi. Nhưng, dư luận đặt ra là tại sao nó tồn tại trong một thời gian dài như vậy mà Sở Y tế Tp. HCM không hề hay biết? Và tại sao khi cơ quan ngôn luận phát hiện, phanh phui mà Sở Y tế vẫn “im lặng” để Khoa CTCH tiếp tục hoạt động?

M.T.Phong
.
.
.