Việt Nam-ASEAN và Cách mạng Công nghiệp 4.0:

Kỳ 4: Cơ hội nào cho Việt Nam trong kỷ nguyên số?

Chủ Nhật, 16/09/2018, 09:50

Giống như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, cuộc cách mạng công nghiệp  lần thứ 4 (CMCN 4.0) sẽ làm tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân toàn cầu nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Vậy cơ hội nào cho Việt Nam trong CMCN 4.0?

Với chủ đề về CMCN 4.0, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018 (WEF 2018) vừa diễn ra tại Hà Nội được coi là một trong những hội nghị lớn và quan trọng nhất của WEF. Justin Wood, Giám đốc khu vực châu Á của WEF nói: “Khu vực ASEAN đang là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới. Sự hiện diện của các lãnh đạo thể hiện cam kết duy trì phát triển trong bối cảnh CMCN 4.0 mở rộng quy mô ảnh hưởng, và môi trường địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng”.

Đồng quan điểm này, Chủ tịch WEF Borge Brende nhận định, CMCN 4.0 đang tạo những thay đổi mạnh mẽ và quyết liệt đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia thành viên ASEAN.

“Nhiều nước ASEAN đã phát triển kế hoạch cấp quốc gia mạnh mẽ về nền kinh tế kỹ thuật số như sáng kiến “Quốc gia thông minh” ở Singapore hay Thailand 4.0 ở Thái Lan. Đến nay, các kế hoạch này dường như tập trung vào hệ thống cơ sở hạ tầng và đây là một ý tưởng không tồi vì nếu không có cơ sở hạ tầng thích hợp thì không thể cạnh tranh được. 

Thêm vào đó, trong một vài năm gần đây, khu vực ASEAN đã đạt được một số thành tựu công nghệ lớn. Nhiều doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội của CMCN 4.0. Điều này thể hiện tinh thần sáng tạo và dám nghĩ dám làm của doanh nghiệp đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của ASEAN trong kỷ nguyên số”, Chủ tịch WEF nhấn mạnh.

Riêng đối với Việt Nam, ông Borge Brende cho rằng, “từ góc độ của sự sẵn sàng kết nối, có thể thấy, Việt Nam có sức mạnh và nhiều cơ hội”. “Một yếu tố rất tích cực ở Việt Nam là khả năng tham gia kết nối mạng Internet. Khả năng này càng cao thì càng có nhiều người trở thành một phần của CMCN 4.0. Việt Nam thực hiện điều này rất tốt”, Chủ tịch WEF chỉ rõ.

Thế giới đang chuyển mình trước CMCN 4.0

Trên thực tế, mặc dù Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người chỉ là 2.200 USD (theo thống kê của Standard & Poor), nhưng Việt Nam đã tham gia khá sâu rộng trong lĩnh vực Internet và truyền thông. Báo cáo từ Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến hết năm 2015, tỷ lệ người dùng Internet Việt Nam đã đạt 52% dân số. Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về thời gian sử dụng Internet với 5,2 giờ mỗi ngày, đứng thứ 22 trên thế giới tính theo dân số về số người sử dụng mạng xã hội (thống kê của wearesocial.net).

Hiện tại, 55% dân số Việt Nam đang sử dụng điện thoại di động. Với một chiếc điện thoại được kết nối Internet, chúng ta có thể được cập nhật các tin tức thời sự xã hội tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Chúng ta cũng thể đặt vé máy bay, gọi taxi giá rẻ hay lên mạng xã hội tán gẫu với bạn bè… Việt Nam đang được tận hưởng những công nghệ mới nhất của thế giới trong lĩnh vực truyền thông di động. Đây cũng là cơ sở bước đầu để Việt Nam tham gia vào cuộc CMCN 4.0.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong một cuộc gặp gỡ doanh nghiệp tiên phong về công nghệ

Trong các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và các thành viên chính phủ Việt Nam bên lề Hội nghị WEF ASEAN 2018, GS Klaus Schwab – người sáng lập và là Chủ tịch điều hành WEF đều đánh giá cao vai trò của Chính phủ Việt Nam trong việc thiết lập cơ chế chính sách cho việc tiếp cận CMCN 4.0, thúc đẩy môi trường kinh doanh, khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và đặc biệt là tạo môi trường sẵn sàng thay đổi với các công nghệ mới, làm chủ và phát triển các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, robot.

Vì thế, theo GS Klaus Schwab, ngoài mở trung tâm về CMCN 4.0 tại Bắc Kinh (Trung Quốc) và Singapore, WEF đang xem xét và lên kế hoạch xây dựng một trung tâm mới về CMCN 4.0 ở Việt Nam.

Hình minh hoạ sự thay đổi trong sản xuất qua các cuộc cách mạng công nghiệp

Nói kỹ hơn về những cơ hội vàng cho Việt Nam trong CMCN 4.0, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy cho biết: “Có thể khẳng định đây là thời điểm thuận lợi nhất đối với doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam. Bởi hiện nay, Việt Nam có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ đổi mới sáng tạo như: Chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo Việt Nam-Phần Lan (IPP) – Chương trình hợp tác với Chính phủ Phần Lan nhằm đẩy mạnh đổi mới sáng tạo tại Việt Nam; Chương trình FIRST do Ngân hàng thế giới tài trợ, Chương trình BIPP hợp tác với Bỉ… đặc biệt là Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (Đề án 844). Hơn nữa, trong thời gian qua, Việt Nam đã hình thành được nhiều vườn ươm doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vinh”.

Tuy nhiên, theo ông Bùi Thế Duy, khó khăn lớn nhất hiện nay ở Việt Nam chính là nhận thức khi các bạn trẻ chưa phân biệt được “lập nghiệp” với “khởi nghiệp” và “khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.” Khái niệm startup trên thế giới tương ứng với khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, có nghĩa là phải khởi nghiệp từ những ý tưởng mới, những mô hình mới, hình thức kinh doanh mới, những kết quả khoa học và công nghệ mới để nhanh chóng phát triển doanh nghiệp và cạnh tranh trên toàn cầu. Còn lập nghiệp thông thường như mở một cửa hàng để bán hoặc làm lại một mô hình cũ mà không được nhân rộng hoặc phát triển.

Một nhận thức nữa cũng rất quan trọng là tinh thần của xã hội nói chung, tinh thần của các bạn trẻ, tinh thần của các đối tượng liên quan nói riêng là phải biết “chấp nhận thất bại”. Đối với các nước đã thành công trong việc phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, đó là họ tạo ra được “văn hóa chấp nhận thất bại.” Sau thất bại, doanh nghiệp sẽ đánh giá được hướng đi hiện tại và tìm những con đường tốt hơn cho tương lai. Chính vì lẽ đó, họ càng dễ được lựa chọn để đầu tư phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Điều này không dễ dàng trong suy nghĩ, tư duy người Việt Nam.

Trong khi đó, để Việt Nam có thể trở thành “mắt xích” quan trọng trong việc kết nối ASEAN và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thúc đẩy ứng dụng phát triển khoa học và công nghệ, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các bạn trẻ phải là trung tâm trong việc kết nối này.

Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc thì bày tỏ quan điểm rằng, đối với nền kinh tế số, thế giới đang nhỏ lại còn doanh nghiệp nhỏ thì đang lớn lên. Công nghệ số đang tạo nên nền tảng về sự bình đẳng cho doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ trong việc tiếp cận tri thức và tiếp cận khách hàng. Kỷ nguyên công nghệ số này đang dẫn đến tạo ra một thế hệ doanh nghiệp mà dù có vốn nhỏ nhưng trí tuệ lớn, một thế hệ kinh doanh mới.

Trau dồi năng lực lao động là điều tiên quyết trong CMCN 4.0

Thống kê từ VCCI cho thấy, hiện có tới trên 95% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng internet nhưng con số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong ứng dụng công nghệ thông tin lên tới gần 60%. Trong khi đó, những doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả thường dễ tiếp cận thông tin chính sách, pháp luật hơn, thực hiện thủ tục hành chính nhanh chóng hơn và quan trọng là có kết quả kinh doanh tốt hơn. Đối với các cơ quan nhà nước trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính công, nếu áp dụng công nghệ thông tin tốt, cũng cung cấp thông tin tới doanh nghiệp nhanh chóng và thuận lợi hơn, với thời gian thực hiện thủ tục hành chính cho doanh nghiệp được rút ngắn.

Vì vậy, muốn trở thành một ngôi sao thực sự trong nền kinh tế số, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần xây dựng được một nền tảng thể chế thực sự phục vụ cho nền kinh tế số phát triển. Bản thân các doanh nghiệp cũng phải trang bị cho mình tri thức lớn để cạnh tranh và hội nhập thành công.

Việt Nam đã bắt tay xây dựng Chính phủ điện tử ngay từ những năm 2000, gắn với quá trình đổi mới thể chế và cải cách thủ tục hành chính. Và từ năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã có nghị quyết về Chính phủ điện tử, trong đó có yêu cầu doanh nghiệp cũng phải điện tử hóa để kết nối Chính phủ.

Việt Nam đang tiến bộ về năng lực cạnh tranh toàn cầu

Đây là nhận định của Diễn đàn Kinh tế thế giới đưa ra trong báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2017 – 2018. Đồng thời, WEF cũng chỉ ra những vấn đề còn tồn tại đối với Việt Nam để đảm bảo sự phát triển là liên tục và bền vững.

Báo cáo Chỉ số Năng lực Cạnh tranh toàn cầu được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố hàng năm nhằm mục đích đo lường sự lên xuống về năng suất của các nền kinh tế. Đây là nhân tố quyết định thu nhập bình quân đầu người ở từng quốc gia. Các chỉ số này dựa trên việc tính toán, phân tích 106 yếu tố khác nhau của nền kinh tế để xem liệu nền kinh tế đó là mạnh hay yếu. Với trường hợp của Việt Nam, bức tranh tổng thể đang có những sự cải thiện.

Trong Báo cáo thường niên năm 2017-2018 mà WEF công bố, Việt Nam tăng 5 bậc so với năm 2016, với xếp hạng 55 trên 137 quốc gia. Đây là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF đưa ra chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu tổng hợp vào năm 2006. Với thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như Philippines, Campuchia, Lào.

Phân tích về những điểm mạnh của Việt Nam, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương của WEF Justin Wood đánh giá, Việt Nam đã có những thành tựu rất đáng kể trong lĩnh vực y tế, tuổi thọ bình quân cao, nguy cơ bùng nổ các đợt dịch bệnh thấp, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh thấp, các loại chỉ số này cho thấy mức độ phát triển của Việt Nam.

"Điểm đáng chú ý nữa là sự ổn định về kinh tế. Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát ít biến động và tương đối thấp, và tỷ lệ tiết kiệm cao đi kèm tỷ lệ đầu tư mạnh mẽ. Nền tảng của nền kinh tế Việt Nam là tương đối tốt", ông Justin Wood cho hay.

Tuy nhiên, báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của WEF cũng chỉ ra những vấn đề tồn tại vốn đang cản trở Việt Nam vươn tới vị trí cao hơn trên chuỗi giá trị toàn cầu. Đó là năng lực sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam khá thấp.

Chỉ số đổi mới sáng tạo bao gồm các khoản đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R&D) như thế nào, số lượng các bằng sáng chế được cấp là bao nhiêu. Điều này cản trở Việt Nam tiến sâu hơn trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa, đặc biệt trong bối cảnh Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đang tăng tốc.

Điểm yếu nữa là về chất lượng lao động và cơ cấu của lực lượng lao động tại Việt Nam. WEF cho rằng chỉ số này phản ảnh những khó khăn của doanh nghiệp khi muốn tìm được lao động phù hợp và khả năng người lao động dịch chuyển công việc.

Ông Justin Wood cũng nói thêm rằng, trước nay, lợi thế của Việt Nam là lao động giá rẻ nhưng giờ Việt Nam đang bị nhiều quốc gia khác vượt trước. Vì vậy, Việt Nam phải xây dựng chiến lược mà ở đó con người là trung tâm để tăng khả năng về lợi thế cạnh tranh năng lực và trình độ làm việc. Theo ông Justin Wood, trong thời đại 4.0, lao động giá rẻ không còn là điều kiện tốt cho một nền kinh tế phát triển. 


H.Chi-L.Đan
.
.
.