Bài toán chất thải nhiệt điện than đã có lời giải

Thứ Năm, 05/10/2017, 08:04
Vừa qua, tại Cần Thơ, Bộ Xây dựng và Bộ Công thương đồng chủ trì, phối hợp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức Hội thảo khoa học Sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Theo ông Hoàng Quốc Vượng, Thứ trưởng Bộ Công Thương, trong bối cảnh của nước ta, khi việc khai thác tiềm năng các loại năng lượng khác phục vụ sản xuất điện như thủy điện, điện khí… đã đạt tới hạn, trong khi việc phát triển điện hạt nhân tạm dừng, các loại năng lượng tái tạo khác (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) chi phí đầu tư lớn và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.

Để đảm bảo an ninh năng lượng, đáp ứng nhu cầu điện ổn định phục vụ sản xuất và tiêu dùng với chi phí hợp lý thì việc phát triển nhiệt điện than (NĐT) cần được quan tâm đúng mức. Tuy vậy, việc phát triển NĐT phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.

Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I và III (Trà Vinh) hằng năm thải ra khoảng 1,8 triệu tấn tro, xỉ.

Vấn đề tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy NĐT thời gian qua đang là thách thức đối với việc phát triển bền vững NĐT do thiếu các cơ chế, chính sách, các tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp và cần phải khẳng định rõ ràng là tro xỉ từ các nhà máy NĐT không phải là chất thải nguy hại.

“Việc tổ chức hội thảo khoa học nhằm thảo luận, trao đổi và đưa ra các giải pháp căn cơ để xử lý vấn đề tro, xỉ, thạch cao từ các nhà máy NĐT tại khu vực ĐBSCL theo đúng chỉ đạo của Chính phủ”, ông Hoàng Quốc Vượng khẳng định.

Ngày 12-4-2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón để làm nguyên liệu sản xuất VLXD và sử dụng trong các công trình xây dựng.

Ông Bùi Phạm Khánh, Thứ trưởng Bộ Xây dựng cho biết, Chính phủ đã giao cho Bộ Xây dựng nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách, quy chuẩn, tiêu chuẩn sử dụng tro, xỉ, thạch cao từ các nhà máy nhiệt điện, luyện kim, phân bón hóa chất làm nguyên liệu sản xuất VLXD và sử dụng vào các công trình xây dựng; sử dụng tro, xỉ sản xuất VLXD không nung thay thế gạch đất sét nung.

Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, đối với Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải I và Duyên Hải III trong vùng ĐBSCL, 7 đối tác đã ký hợp đồng tiêu thụ khoảng 2,9 triệu tấn tro xỉ, bằng 210% tổng khối lượng tro xỉ trung bình hằng năm của 2 nhà máy, bằng 160% lượng tro xỉ đang lưu giữa tại bãi thải xỉ. Lượng tro xỉ này được các đối tác mua để sử dụng làm phụ gia trong sản xuất xi măng.

Từ khi vận hành đến ngày 13-7-2017, hai nhà máy điện Duyên Hải I và III đã xuất bán 134.196 tấn tro, xỉ, bằng 7,1% tổng sản lượng tro, xỉ từ khi vận hành của 2 nhà máy. Tổng Công ty phát điện I đang nghiên cứu lập dự án đầu tư đường ống vận chuyển tro bay bằng khí nén ra cảng biển để giảm chi phí vận chuyển và tiếp cận các đối tác tiêu thụ với khối lượng lớn…

Hiện, một số loại VLXD được sản xuất từ tro, xỉ của nhà máy nhiệt điện hiện đang được nghiên cứu hoặc ứng dụng tại Việt Nam, gồm: sử dụng tro tuyển làm phụ gia bê tông; tro, xỉ làm phụ gia xi măng; làm vật liệu gia cố nền; vật liệu san lấp; làm gạch không nung, gạch bê tông nhẹ, gạch bê tông chưng áp…

Việc sử dụng VLXD thay thế tại khu vực ĐBSCL là tập trung phát triển sản xuất, sử dụng VLXD từ tro, xỉ đối với VLXD không nung và vật liệu san lấp, gia cố nền trong xây dựng giao thông. Xuất phát từ thực tế hiện nay các công trình giao thông, công trình đường bộ tại khu vực ĐBSCL phải nhập cát từ Campuchia với giá rất cao; công tác sản xuất xi măng mặc dù được đầu tư rất tốt, nhưng chi phí cho chất liên kết này còn cao.

Thêm vào đó, có rất nhiều khu vực có địa chất rất yếu, đặc biệt là các tuyến đi qua khu vực đồng bằng ngập nước, các khu vực hồ, ao. Khi đó, chi phí cho việc xử lý, gia cố nền đất bằng các chất liên kết vô cơ cũng vô cùng tốn kém.

Nhu cầu về vật liệu thay thế cho vật liệu tự nhiên (khi đắp nền) hoặc thay thế một phần chất liên kết vô cơ (khi gia cố nền đường) là vô cùng cần thiết đối với ngành xây dựng đường bộ phục vụ giao thông. Điều đó mở ra một thị trường mới cho tro xỉ, với các hình thức sử dụng phong phú và chắc chắn khối lượng tiêu thụ rất lớn.

Việt Nam hiện có 21 nhà máy NĐT đang hoạt động, tiêu thụ khoảng 45 triệu tấn than/năm, thải ra hằng năm hơn 16 triệu tấn tro xỉ, thạch cao và tổng diện tích các bãi thải xỉ hơn 700ha. Dự kiến tới năm 2020 có thêm 12 dự án NĐT đi vào hoạt động (đang trong quá trình xây dựng) và tổng công suất lắp đặt NĐT là 24.370 MW, tiêu thụ khoảng 60 triệu tấn than. Tổng lượng tro bay, xỉ đáy lò phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện đến năm 2020 ước khoảng 22,6 triệu tấn/năm.
Văn Đức
.
.
.