Vị Đại tướng giản dị và rất đời thường

Thứ Hai, 29/04/2019, 06:11
Đối với Đại tá Khuất Biên Hòa, khi nhắc đến Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (còn gọi là bác Sáu Nam) người mà trong sâu thẳm đáy lòng ông luôn coi như một người cha, một người thầy, đó là một con người có tầm nhìn chiến lược, thông minh, sắc sảo, cẩn trọng nhưng cũng giàu lòng nhân ái, giản dị và rất đời thường.


“Đại tướng Lê Đức Anh là người có nhiều đóng góp lớn và hiệu quả cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đưa đất nước vượt qua những khó khăn nghiệt ngã và phát triển đi lên, nhưng lối sống, phẩm chất của Đại tướng luôn đậm chất Bộ đội Cụ Hồ.

Cuộc sống từ bé cho đến khi vào quân ngũ, trở thành người đứng đầu Nhà nước, bác Sáu Nam vẫn rất giản dị và tiết kiệm, không phải tiết kiệm cho bản thân ông mà cho nhân dân, đất nước” – Đại tá Khuất Biên Hòa bắt đầu câu chuyện với chúng tôi với những kỷ niệm về nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh.

Những năm làm trợ lý giúp việc cho Đại tướng Lê Đức Anh, thời gian chưa phải dài nhưng cũng đủ để ông Khuất Biên Hòa cảm nhận được con người của Đại tướng. Nhớ về những năm tháng làm việc cùng Đại tướng Lê Đức Anh, ông Hòa xúc động kể: “Phong cách của Đại tướng rất giản dị. Ông hay mặc bộ quần áo Tô châu màu rêu đã cũ, mùa đông thì thêm chiếc áo len bên trong, khoác chiếc áo bông của quân đội phát. Khi có ngày lễ quan trọng hay có đồng chí cán bộ của Trung ương sang làm việc hay thăm hỏi, trước đó 15 phút ông nói công vụ lên lấy bộ comple để ông mặc. Sau đó, ông ngồi đón khách trước giờ hẹn 5 phút”.
Ngày 20-1-1993, Chủ tịch nước Lê Đức Anh tới thăm và chúc Tết làng trẻ em mồ côi SOS Hà Nội nhân dịp đầu xuân Quý Dậu.

Căn nhà công vụ N8 (ở số 5, Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội) - nơi Đại tướng và phu nhân ở từ mùa Đông năm 1986 đến nay, nó đã trở nên cũ kỹ, đơn sơ. Đồ đạc trong nhà (nhà công vụ N8 cũng như trong nhà riêng của Đại tướng ở TP Hồ Chí Minh) từ bàn ghế, giường tủ đến các vật dụng khác đều đã cũ và toàn những thứ rất bình dị.

Mỗi dịp “mùa hè Hà Nội” ập đến, những lúc ngồi ăn cơm, bác Anh đầm đìa mồ hôi. Trong khi đó chiếc máy lạnh của phòng ăn là loại máy cũ, mỗi lần khởi động thì phải sau 15 phút mới có hơi lạnh.

Thấy vậy, ông Hòa bảo cháu Nga (người phụ bếp), hãy bật máy lạnh trước bữa ăn 15 phút để khi Đại tướng và phu nhân dùng bữa sẽ không bị nóng nữa. Nhưng cháu Nga chỉ thực hiện được hai lần, khi bác Anh biết được việc này thì đã không cho bật máy sớm, ông bảo làm như vậy tốn điện của nhà nước.

Trong những năm tháng làm trợ lý giúp việc cho Đại tướng, có khá nhiều cuộc “vi hành” đường dài bằng xe hơi, những chuyến đi mà đối với ông Hòa là “không thể nào quên”. Bởi vì, tháp tùng một Nguyên thủ Quốc gia tuổi cao lại đã trải qua hai lần tai biến “xuất huyết não”, vậy mà ông bảo: “Không gọi xe Cảnh sát có đèn còi ủ dẫn đường. Không thông báo cho các đơn vị Quân đội và các cơ quan, chính quyền địa phương trên dọc tuyến đường đi”.

Những chuyến vi hành như thế, ông thường dặn trợ lý và cận vệ mang theo sữa, cam tươi, bánh mì, cơm nắm, nước suối; tới giờ nghỉ trưa thì dạt xe vào tán cây bên đường chừng ba mươi phút để dùng “bữa ăn khô”, chứ không muốn phiền các đơn vị.

“Có lần bác Sáu Nam chia sẻ - Các tỉnh nằm trên đường mà ta chỉ đi qua chứ không có nội dung làm việc; nhưng lâu ngày thấy bác tới, các đơn vị quý thì đón tiếp. Nhưng tục lệ ở ta, cứ trưởng tiếp thì cũng phải có cấp phó, rồi đủ các ban bệ. Trong khi chỉ có bác cháu ta mà tốn kém 4-5 mâm cơm thì mang tiếng vì bác Anh mà các địa phương tốn kém việc tiếp đãi, mà tiền đó cũng do nhân dân đóng góp mà có. Như vậy thì không nên” – Trợ lý của ông Sáu Nam kể lại.

Người thiết kế một phong trào đã trở thành nếp sống xã hội hết sức nhân văn

Theo ông Khuất Biên Hòa, phong cách sống của Đại tướng Lê Đức Anh không thích nghi thức, mà cần những gì thiết thực cho công việc để giải quyết công việc một cách hiệu quả. Mỗi khi có dịp đi các địa phương, ông thường tranh thủ gặp gỡ, hỏi han người dân và cán bộ cơ sở để biết rõ tình hình xã hội và cuộc sống của đồng bào một cách thực chất và đúng đắn nhất.

Một lần vào hai tỉnh Kiên Giang và Cần Thơ, ông phát hiện ở đây có nhiều người dân đã mất hết ruộng đất canh tác. Ông đã gặp họ và hỏi vì sao mất ruộng, thì họ trình bày hết, rồi họ khóc. Thì ra một số người có tiền đã mua, đúng lúc gia cảnh gặp khó khăn họ phải bán, thế là mất ruộng; mà người nông dân cả đời gắn với ruộng đất nay ruộng không còn thì lập tức rơi vào khốn khó. Lúc đó ông nói thẳng với cán bộ lãnh đạo tỉnh rằng, chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân.

Vấn đề cốt  lõi trong đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng ta là ruộng đất cho dân cày. Bây giờ giải phóng rồi, người nông dân lại phải đi cầm cố ruộng đất, cuối cùng bị mất ruộng đất vì không có tiền chuộc, lại trở thành người làm thuê trên mảnh ruộng đó của mình. Như vậy mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ bị phá, bị xóa bỏ.

Hôm đó ông Tám Quýt, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang, một con người vốn rất thật thà, trong chiến tranh đã chiến đấu rất kiên cường dũng cảm, nói: “Tôi sống sát với dân mà không hiểu dân!”. Ngay sau chuyến đi đó, ông về báo cáo đề xuất với Bộ Chính trị; được Bộ Chính trị chấp thuận, Chính phủ đã trích một khoản ngân sách để hỗ trợ cho các gia đình nông dân miền Tây Nam Bộ chuộc lại ruộng đất.

Giành thời gian đi thăm nhiều nơi nên ông đã phát hiện ra một hiện tượng khá phổ biến là có nhiều bà mẹ có các con đã đi chiến đấu và hy sinh, bản thân mẹ thì cuộc sống khó khăn. Ông hỏi cán bộ địa phương thì được trả lời vì trên chưa có chủ trương nên địa phương không biết  làm cách nào.

Ông đến tận phường, xã hỏi số người thiếu đói có bao nhiêu. Ông thăm hỏi các bà mẹ của liệt  sỹ thì thấy rằng những người mẹ đã cống hiến chồng, con mình cho Tổ quốc nhưng lâu nay ít được chăm sóc. Khi trở về Hà Nội, họp Bộ Chính trị, ông đã đề xuất việc phong tặng danh hiệu “Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng”. Ông cho rằng đối với sự chịu đựng và hy sinh của các bà mẹ cho Tổ quốc thì việc làm này là quá muộn, nhiều bà mẹ đã không còn nữa, nhưng muộn còn hơn không.

Được tập thể Bộ Chính trị đồng ý, ngày  10 tháng 9 năm 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh (số 36L/CTN)-công bố Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.

Ngày 1-12-1994, Đảng, Nhà nước ta long trọng tổ chức Lễ phong tặng danh hiệu Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng đợt một tại Thủ đô Hà Nội.

Chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã trực tiếp đón và cùng các Mẹ duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch. Trong khung cảnh đó, nhiều Mẹ đã xúc động nghẹn ngào.

Sau các đợt phong tặng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng thì cả nước dấy lên phong trào nuôi dưỡng suốt đời các Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, không chỉ các cơ quan nhà nước mà còn có các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Từ việc nuôi dưỡng các Mẹ, sau đó phong trào phát triển lên, nhiều nhà hảo tâm đã xây nhà tình nghĩa, giúp đỡ, tài trợ những gia đình chính sách, thương binh, bệnh binh, người hoạt động cách mạng…

Không bao giờ lấy cương vị của mình để nâng đỡ con cháu

Cuộc đời của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ một người lính Cụ Hồ, trở thành vị Đại tướng toàn tài, một Nguyên thủ quốc gia có tầm nhìn chiến lược sâu sắc vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, chừng mực từ câu nói, tác phong đến tư trang vật dụng hàng ngày.

Trong câu chuyện về nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta, Đại tá Khuất Biên Hòa luôn nhắc về ông với cụm từ một con người sống tình cảm và tin cậy. Tình cảm của Chủ tịch nước dành cho gia đình, cho các con và cho đất nước là như nhau và không có sự cách biệt, và trong mọi ứng xử ông luôn đặt lợi ích của đất nước lên trên hết.

Có được tình cảm đó, chính bản thân ông là con người vô cùng trong sáng, nhưng cũng rất sâu sắc, không vì lợi ích cá nhân, không chỉ nghĩ cho riêng mình.

“Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh là người không bao giờ lấy cương vị, công việc của mình để lo lắng, dàn xếp, nâng đỡ con cháu và những người thân của mình. Ông có 1 người con trai, 2 người con gái và sáu cháu nội-ngoại, nhưng Đại tướng không bao giờ tận dụng cương vị và các mối quan hệ xã hội của mình để nâng đỡ con, cháu.

Đại tướng nói với các con phải tự mình rèn luyện, phấn đấu, cố gắng làm việc theo luật pháp, theo phẩm chất, nỗ lực của bản thân. Nếu bản thân làm tốt, có phẩm chất tốt thì các cơ quan Đảng, Nhà nước sẽ dung nạp chứ không có chuyện xin xỏ, gọi điện, thư tay này kia…” – ông Khuất Biên Hòa kể.

Còn nhớ: Khi ông Lê Hữu Độ là người anh ruột của Đại tướng Lê Đức Anh khấp khởi từ quê nhà Thừa Thiên - Huế ra Hà Nội thăm và có lời nhờ vả người em trai lúc đó đương là Chủ tịch nước. Ông Độ hào hứng nói với ông: “Chừ thằng con đầu của tôi đã tốt nghiệp đại học, có bằng Kỹ sư; má vợ nó bên Gia Lâm lại cho vợ chồng nó một miếng đất cất nhà. Nay nhờ chú kiếm cho cháu một chỗ làm ở quanh Hà Nội cho tiện đi về và chăm sóc vợ  con”.

Bác Anh ân cần nói: “Em mừng cho anh chị, mừng cho cháu! Còn nơi làm việc thì anh nhủ cháu cứ rèn luyện và phấn đấu cho tốt sẽ  khắc có cơ quan, xí nghiệp thu nạp”. Nghe vậy, ông Độ không vui nhưng khi hiểu nguyên tắc công việc và tấm lòng của Bác Anh, lại được người em gái khuyên giải, ông Độ thấy nhẹ lòng.

Năm 2003-2004, báo chí có công bố quy hoạch “Khu chính trị Ba Đình”; cùng lúc Bộ Quốc phòng bàn giao khu di tích Điện Kính Thiên - Cửa Bắc - Lầu Công chúa cho Sở Văn hoá Hà Nội, đồng thời tiến hành xây dựng cơ quan Bộ bên kia đường Nguyễn Tri Phương.

Lúc đó Cục Hậu cần của Bộ Tổng Tham mưu cũng xây cất hai ngôi nhà bốn tầng bên bờ Hồ Tây để phòng khi phải bàn giao nốt khu nhà khách T66, nơi có căn nhà N8, thì sẽ mời bác Lê Đức Anh và Bộ trưởng Phạm Văn Trà di chuyển ra đây ở.

Nhưng khi biết chuyện, bác Anh nói: “Từ lâu nay Quân đội đã có quy định mỗi cán bộ chỉ hưởng một suất nhà - đất. Tôi đã được cấp nhà từ sau giải phóng miền Nam. Tôi không thể nhận thêm cái thứ hai. Khi nào TP Hà Nội thu nhà công vụ này thì tôi vô nhà tôi trong TP Hồ chí Minh”.

Theo người trợ lý, bác Lê Đức Anh là người sống rất tình cảm và mọi ứng xử rất nhân văn. Đại tướng là người rất thận trọng, kiệm lời, chứ không vồ vập. Mỗi khi trao đổi với ai, ông thường thu thập thông tin nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, sau đó trao đổi với họ rất thận trọng, và thường là rất chuẩn. 

“Khi tôi làm trợ lý kiêm thư ký phục vụ bác ở đây, bác nói: chú dặn bảo vệ tiếp cận và các cháu cảnh vệ, riêng cửa số 5B Hoàng Diệu luôn luôn mở rộng để đón mọi người, từ người là lao động bình thường hay cán bộ các ngành, các địa phương” – Đại tá Khuất Biên Hòa nói và nhấn mạnh, con người Đại tướng là như vậy, đối với cấp dưới, đối với nhân dân, ông luôn đối xử bằng thứ tình cảm yêu thương, trân trọng và gần gũi nhất, đó là tình cảm giữa con người với nhau, không phân biệt cao thấp, sang hèn.

PV
.
.
.