Thông tin thêm về những chuyến bay IL-14 chi viện chiến trường năm 1968

Thứ Năm, 06/10/2005, 07:50

Là một trong những phi công đã tham gia trực tiếp chiến dịch Mậu Thân 1968, tôi muốn được cung cấp thêm một số thông tin để bạn đọc hiểu rõ hơn, đồng thời, giúp cho chúng tôi - những người lính còn sống trở về nhưng vẫn luôn day dứt về số phận của những người đồng đội, có tin tức để có thể sớm tìm lại được hài cốt của đồng đội.

Vừa qua, trên một số báo có đưa tin trong chiến dịch Mậu Thân 1968, Đại đội IL-14, Đoàn 919 có 4 tổ bay lâm nạn, gồm 32 đồng chí hy sinh. Đặc biệt, sau khi phát hiện chiếc máy bay IL-14 bị rơi ở A Lưới, đoàn cán bộ chính sách của Quân chủng Không quân và Đoàn bay 919 đã đến đó quy tập liệt sĩ, nhưng rất tiếc là toàn bộ quá trình chuẩn bị, khai quật, chuyển hài cốt về Nghĩa trang Yên Viên đều không có đồng chí nào trong đơn vị IL-14 từng tham gia trực tiếp vấn đề này có mặt hoặc được thông báo để cùng tham gia, nên chưa đủ điều kiện để xác minh nguồn gốc của chiếc máy bay thuộc tổ nào, tốp nào.

Về những chiếc IL-14 sử dụng trong chiến dịch Mậu Thân 1968

Máy bay IL-14 là loại máy bay vận tải 2 động cơ cánh quạt, vận tốc tối đa 380 km/giờ, hoạt động trong vòng bán kính 700km, do Liên Xô chế tạo và viện trợ cho Việt Nam vào những năm cuối thập niên 50, đầu thập niên 60.

Đến cuối năm 1967, Trung đoàn 919 chỉ có Đại đội IL-14 do anh Nguyễn Văn Bang làm Đại đội trưởng, gồm 14 chiếc, trừ 1 chiếc dùng làm chuyên cơ, số còn lại được cải tiến để phục vụ tác chiến, từ một chức năng vận tải thành hai chức năng: vận tải - ném bom. Các đồng chí trong Ban Kỹ thuật trung đoàn, trong đó có anh Nguyễn Tường Long, Anh hùng LLVTND, bấy giờ là Tổ trưởng Cơ khí, đã lắp thêm 2 giá treo bom dưới thân, cánh máy bay, cải tiến 2 mấu giá cũ, tổng cộng được 4 giá để có thể treo 4 quả bom loại 100kg hoặc 2 quả loại 250 kg. Sàn máy bay được khoét thủng, lắp 27 ống chứa đạn cối. Khoang hành khách được thiết kế thêm một khung giá gắn 50 ống chứa 50 quả đạn cối 120mm, được đẩy trên hai gờ chạy dọc sàn máy bay như đẩy xe goòng. Thả cối bằng cách rút chốt hãm, kéo dây cáp làm cho khung chứa  đạn bị lệch trọng tâm nghiêng ra ngoài hất đạn cối xuống. Cách thả dù cũng được thực hiện rất thủ công là đẩy và đạp  dù ra khỏi cửa. Đến trước ngày mở chiến dịch, ta mới cải tiến xong 3 chiếc để làm nhiệm vụ ném bom.

Tham gia chiến dịch này, ngoài quân số chủ yếu của Đại đội IL-14, còn bổ sung một số đồng chí nguyên là phi công IL-14, đã chuyển đơn vị khác. Đại đội chọn ra 6 tổ lái, mỗi tổ có 5 người gồm: lái chính (LC), lái phụ (LP), dẫn đường (DĐ), cơ giới (CG), thông tin (TT). Vì đây là những chuyến bay rất nguy hiểm nên quân số trên máy bay được hạn chế tối đa. Tổ lái phải kiêm nhiệm thêm việc thả bom, thả đạn cối. Riêng các tổ bay tiếp tế, do khối lượng thả dù quá nhiều nên buộc phải tăng cường mỗi tổ 2 đồng chí của đơn vị dù. Các tổ lái được chia làm 2 tốp với hai nhiệm vụ khác nhau. Một tốp có nhiệm vụ thả dù hàng tiếp tế, một tốp khác làm nhiệm vụ ném bom tiêu diệt địch (xem phụ lục cuối bài).

Tốp ném bom: gồm 3 tổ (5 đồng đội/ tổ).

1. Nguyễn Văn Bang (Đại đội trưởng, lái chính), Lê Văn An (lái phụ), Hồ Văn Tiếp (dẫn đường), Lê Hữu Đắc (cơ giới), Trần Văn Tụ (thông tin).
2. Phạm Thanh Ba (LC), Ngô Văn Luyến (LP), Bùi Đình Vận (Chủ nhiệm DĐ Đại đội DĐ), Lưu Văn Tuyên (CG), Nguyễn Văn Công (TT).
3. Hoàng Liên (Đại đội phó, LC), Đinh Chí Linh (LP), Đào Nam Trường (DĐ), Lê Ngọc Chuyền (CG), Đỗ Xuân Khương (TT).

Tốp thả dù: cũng có 3 tổ lái, (5+2=7 người) gồm có:

1. Hoàng Ngọc Trung (Tiểu đoàn trưởng, LC, chứ không phải Võ Minh Chung như anh Sửu nói trên ANTG số 472, mặc dù chính anh Sửu cùng bay chuyến này), Nguyễn Văn Sửu (LP), Nguyễn Văn Kính (Chủ nhiệm DĐ Tiểu đoàn DĐ), Nguyễn Bình Sưn (CG),....?...? Quý (TT) và thêm 2 đồng chí đơn vị dù - ANTG số ra ngày 27-7 có đăng hình tổ bay này.
2. Võ Minh Chung (LC), Vũ Đức Sầm (là LC nhưng tăng cường thêm, làm lái phụ), Trần Hữu Thọ (DĐ - tác giả), Phạm Đình Phú (CG), Ma Văn Thường (TT) và 2 đồng chí dù (các tài liệu trước đây đều không nói đến tổ bay này và nhầm lẫn về thứ tự cất cánh, nhầm lẫn sự kiện).
3. Phan Kế (LC), Nguyễn Văn Mẫn (LP), Ngô Phượng Châu (DĐ), Nguyễn Minh (CG), Nguyễn Văn Tê (TT) và 2 đồng chí đơn vị dù.

Mục tiêu thả dù là thung lũng Tam Giang thuộc vùng núi Phước Tích, phía tây Huế, có 2 con suối nhỏ chắn hai đầu làm giới hạn. Mục tiêu ném bom là đồn Mang Cá. Thời điểm cất cánh tối ưu là 15 - 16 giờ để vào đến mục tiêu lúc 17 - 18 giờ. Sau khi cất cánh, phải tự tính toán để sao cho có thể đủ nhiên liệu bay trở về.

Xuất kích

Đợt 1, đêm 7/2/1968.

Khoảng 15 giờ ngày 6/2/1968, chúng tôi đưa máy bay từ Tường Vân (Trung Quốc) về hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm rồi vào thẳng nhà ga nhận lệnh chiến đấu. Nhưng thời tiết càng về chiều càng tồi tệ, máy bay không thể cất cánh.

Đến 16 giờ ngày 7/2, có lẽ do yêu cầu khẩn cấp của chiến trường, nên mặc dù thời tiết rất xấu, các tổ bay vẫn được lệnh xuất kích. Đồng chí Phan Khắc Hy thay mặt Quân chủng xuống động viên và tiễn chúng tôi ra tận máy bay. Tôi nhớ như in hình ảnh anh Bang - Đại đội trưởng, sôi nổi đi trước tôi mấy bước. Thấy tay tôi đút túi quần, anh hỏi: “Có lạnh không? Lấy khăn dù của tớ quấn cổ cho ấm!”. Tôi từ chối vì thực sự không lạnh. Giá như vào lúc ấy, tôi nhận tấm khăn dù của anh Bang trao thì bây giờ tôi vẫn còn giữ được hơi ấm của người Đại đội trưởng quý mến, giản dị, chân tình, vô cùng thương yêu chiến sĩ của mình.

Đêm đó cả 6 tổ đều xuất kích. Tốp đầu 3 chiếc bay vào ném bom đồn Mang Cá (Huế) sau đó 10 phút, tốp thứ hai cũng gồm 3 chiếc cất cánh bay vào Phước Tích thả dù tiếp viện vũ khí, chất nổ. Mỗi tốp bay theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau 5 phút để dễ dàng cơ động và hỗ trợ nhau. Vì thời tiết quá xấu, lại liên tục phải tránh máy bay địch và các loại hỏa lực của địch bắn lên từ mặt đất nên sau khi tiếp nhận mục tiêu, không thể xác định được vị trí chuẩn, tổ anh Trung thả hàng lệch mục tiêu 20 km, tổ anh Hoàng Liên bị trúng đạn, cạn xăng phải hạ cánh khẩn cấp xuống Thọ Xuân, Thanh Hóa; các tổ khác trở về an toàn; riêng tổ anh Kế, Mẫn, Châu, Minh, Tê lâm nạn và đã ra đi mãi mãi...--PageBreak--

Trận đầu chưa giành thắng lợi, lại bị tổn thất một tổ bay, nhưng không ai tỏ ra nao núng. Xuất phát từ thực tế của chuyến bay đêm 7/2 và ý kiến của anh em, anh Bang đề nghị từ trận thứ hai, khi vào đến Huế, nếu không thấy mục tiêu chính là đồn Mang Cá thì căn cứ vào tình huống tại chỗ, xin cho phép oanh tạc hai mục tiêu phụ: căn cứ Tà Cơn và cảng Cửa Việt.

Đợt thứ 2, đêm 8/2/1968.

Xuất kích 4 tổ bay  vì máy bay tổ anh Hoàng Liên đang sửa chữa. Riêng tổ anh Võ Minh Chung, là tổ mà tôi đã cùng bay đêm 7/2 thì anh Nguyễn Văn Nùng thay anh Sầm làm lái phụ, còn về phần mình, mặc dù lúc đó bị cảm nhẹ, tôi vẫn xin anh Bang  được tiếp tục tham gia vì ít nhiều đã quen cách bay, nhưng anh nói: “Để cậu Hồi bay thay. Thọ giữ gìn sức khỏe cho tốt rồi bay tiếp. Chiến dịch còn dài, chỉ sợ thiếu lực lượng, lo gì?”.

Nhưng cũng vì thời tiết quá xấu nên các tổ bay buộc phải trở về.

Đợt thứ 3, đêm 10/2/1968.

Vẫn gồm 2 tốp, 4 tổ bay đêm 8/2. Các tổ bay ra đi với tinh thần cảm tử, quyết tâm cao độ. Vào tới khu vực tác chiến, anh em không sợ nguy hiểm, quần đảo sục sạo bằng mọi giá tìm mục tiêu. Nhưng yếu tố bất ngờ không còn, địch tăng cường hỏa lực mặt đất và khống chế trên không; đặc biệt, thời tiết quá xấu đã gây khó khăn rất lớn cho việc thực hiện nhiệm vụ.

Đêm đó, tổ anh Võ Minh Chung, anh Nùng, anh Hồi, anh Phú, anh Thường đã không trở về.

Đêm 12/2/1968, đợt xuất kích thứ tư và cũng là cuối cùng.

Chỉ còn xuất kích được 3 tổ, gồm:

- Tổ anh Bang, An, Tiếp, Đắc, Tụ.
- Tổ anh Ba, Luyến, Vận, Tuyên, Công.
- Tổ anh Trung, Sửu, Kính, Sen, Quý và 2 đồng chí thả dù.

Nhưng trong đêm đó, chỉ có tổ anh Trung trở về, tổ của các anh Bang và anh Ba đã mãi mãi ra đi.

Chỉ một tuần ngắn ngủi tháng 2/1968, lực lượng bay của Đại đội IL-14 bị thiệt hại nghiêm trọng. 20 đồng chí của 4 tổ bay (không thể là 32 đồng chí) đã anh dũng hy sinh. Đó là những chuyến bay chiến đấu chi viện chiến trường miền Nam đầu tiên và cuối cùng của Đại đội IL-14.

Những chiếc máy bay có thể bị rơi ở đâu?

Có thể nghĩ đến những phương án sau:

1- Vùng núi Đô Lương, Nghệ An: ngay vào hồi đó đã có tin đồn một máy bay của ta bị bắn rơi, nhân dân nhặt được phích nước Rạng Đông và súng AK. Nếu đúng thì có thể là máy bay của tổ anh Võ Minh Chung, bị nạn đêm 10/2/1968 (rất cần xác định lại nguồn tin này).

Danh sách những đồng chí tham gia trực tiếp Chiến dịch Mậu Thân 1968 hiện còn sống

1. Hoàng Liên, nguyên Đại đội phó IL-14, tổ trưởng tổ bay. Đã về hưu, hiện ở tại 65/2 Phan Xích Long, Phú Nhuận, Tp.HCM.
2. Trần Hữu Thọ, dẫn đường. Đã về hưu. Hiện ở tại 25 Cửu Long, P.2, Tân Bình, Tp.HCM.
3. Nguyễn Văn Sửu. Lái phụ cho tổ anh Trung. Nay đã về hưu, già yếu. Hiện ở tại Khu TT Đoàn bay 919, Gia Lâm, HN.
4. Lê Ngọc Chuyền: Địa chỉ như trên.
5. Nguyễn Bình Sen: Địa chỉ như trên.
6. Vũ Đức Sầm. Hiện ở Hải Hưng (?)
7. Đỗ Xuân Khương. Đã chuyển công tác từ lâu, nay không rõ chỗ ở.
8. ... Quý: Đã chuyển ngành từ lâu, không liên hệ được.
Riêng các đ/c Hoàng Ngọc Trung, Đinh Chí Linh đã hy sinh trong những chuyến bay sau này.

Như vậy hiện nay 8 đồng chí còn sống.

2- Vùng núi phía tây Huế - Quảng Trị như Lao Bảo, A Sầu, A Lưới, Phước Tích: Khu vực này có hỏa lực bắn lên rất mạnh, hầu như tổ bay nào cũng hứng đạn. Năm 1968, chúng tôi đã nghe đồn có máy bay ta rơi ở phía tây Huế, nhưng không ai để ý. Đến nay tin đồn đó đã được chứng minh. Tuy vậy, hai chiếc mới được phát hiện này là của tổ nào, thuộc tốp nào thì vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn. Trong cuốn băng video “Đi tìm đồng đội” của Đoàn 919 tiến hành tháng 7/2005 thì trong chiếc máy bay bị rơi ở A Lưới, từ số hài cốt được gói và chôn trong một bọc, anh em đi tìm mộ đã chia ra làm 8 phần để tượng trưng cho 8 đồng chí, trong khi trên thực tế, mỗi tổ bay lúc đó, nếu là ném bom thì chỉ có 5 người, tiếp tế thì có 7 người. Trong phim cho thấy những viên đạn cối được lấy ra từ xác máy bay này hình như không có hạt nổ, tức là đạn an toàn thuộc máy bay tiếp tế. Theo cảm nhận của tôi, chiếc máy bay trong cuốn băng này nhiều khả năng là của tổ anh Kế, bị nạn đêm 7/2/1968. Nghe tin khu vực này còn một chiếc nữa nên rất mong các đồng chí có trách nhiệm cho tổ chức tìm hiểu cặn kẽ hơn để chúng ta cùng xác minh hai chiếc này thuộc tốp bay nào, từ đó có thể xác định rõ thuộc tổ bay nào.

3- Vùng Cửa Việt, phá Tam Giang: Ngay năm 1968, chúng tôi đã nghe đồn: đài địch đưa tin có MiG Bắc Việt bị rơi ngoài biển Cửa Việt, phá Tam Giang. Nhiều người kháo nhau, máy bay ta tìm mục tiêu đánh tàu, hạm đội địch thì bị bắn rơi xuống biển. Phải chăng với ý chí tìm bằng được kẻ địch để tiêu diệt, tốp thả bom của anh Bang hoặc anh Ba đã dũng cảm săn lùng tàu giặc tại vùng biển này và đã hy sinh vào đêm 12/2/1968? Tôi nghĩ nhiều khả năng nhất là tổ anh Bang bị nạn ở khu vực này, bởi lẽ hằng ngày, tính cách của anh Bang là trầm tĩnh nhưng mạnh mẽ. Có thể vì vậy, khi tiếp cận Mang Cá, do thời tiết quá xấu, tổ của anh đã quay ra vùng Cửa Việt tìm đánh tàu giặc và đã lâm nạn tại đây.

4- Cũng không loại trừ khả năng máy bay bị đâm vào núi trên chặng bay Mường Xén - Lao Bảo, dọc theo hai bên sườn của dãy Trường Sơn.

Lâu nay, trong tôi luôn vọng về từ đâu đó tiếng gọi thiêng liêng của đồng đội. Nhất định anh em sẽ giúp chúng ta có sức mạnh, gặp may mắn, chỉ cho chúng ta nơi anh em nằm để chúng ta sớm gặp, đưa anh em về với đồng đội, với gia đình. Vấn đề ở chỗ, chúng ta phải bắt tay vào công việc càng sớm càng tốt vì lớp chúng tôi chỉ còn lại 3 người khỏe mạnh. Tôi nay cũng đã về hưu nhưng vẫn còn khỏe, xin sẵn sàng tự lo cơm gạo, khăn gói lên đường với các đồng chí. Rất mong nhận được tin tức của bạn bè xa gần về những chiếc máy bay này

Trần Hữu Thọ
.
.
.