Phái viên quán - cơ quan ngoại giao đầu tiên của Việt Nam ở nước ngoài

Thứ Sáu, 27/08/2010, 11:28
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời; vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chưa một quốc gia nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. "Phải mở cho được một cửa ngõ ra thế giới" là ưu tiên hàng đầu mà Bác Hồ và Trung ương Đảng đặt ra.

Cửa ngõ được lựa chọn là Thái Lan, vì những yếu tố địa lí, giao thông thuận tiện với các nước trong khu vực và thế giới; hơn nữa, cộng đồng kiều bào ta ở Thái Lan khá đông và có tinh thần yêu nước sâu sắc...

Cơ quan đại diện đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở nước ngoài đặt tại Thái Lan, thường gọi là Phái viên quán, tồn tại từ 1946-1951, trước khá lâu thời điểm Việt Nam đặt Đại sứ quán tại Liên Xô và Trung Quốc (năm 1952)...

Trong một chuyến công tác tại TP HCM, tôi đến thăm bà Nguyễn Thị Cúc, phu nhân của đồng chí Nguyễn Đức Quỳ - nguyên phái viên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Thái Lan. Bà Cúc là người có nhiều năm công tác trong ngành Ngoại giao và cũng là một thành viên trong Phái viên quán đặt tại thủ đô Bangkok của Thái Lan.

Một số cán bộ Phái viên quán tại Bangkok, Thái Lan (năm 1949). Đồng chí Nguyễn Đức Quỳ đứng ngoài cùng bên phải.

Được biết, người đứng đầu Phái viên quán, đồng thời là Phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Thái Lan là đồng chí Nguyễn Đức Quỳ - một cựu tù chính trị Sơn La, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam đầu tiên.

Theo hồi ức của bà Nguyễn Thị Cúc: Giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Đức Quỳ vào một ngày cuối tháng 6/1946, Tổng Bí thư Trường Chinh nêu một số nhiệm vụ cụ thể: Phải đoàn kết kiều bào ta ở Thái Lan và các nước khác hướng về Tổ quốc; làm cho thế giới hiểu về cuộc kháng chiến (tất yếu sắp xảy ra) của nhân dân ta; tìm cách tiếp tế cho kháng chiến Nam Bộ; vận động các chính phủ Đông Nam Á, trước hết là Chính phủ Thái Lan đồng tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống ngoại xâm.

Một ngày đầu tháng 7/1946 tại Phủ Chủ tịch, đích thân Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trao "Thư ủy nhiệm" cho đồng chí Nguyễn Đức Quỳ. Thư ủy nhiệm này do Cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước kí thay Hồ Chủ tịch đang thăm nước Pháp. Đồng chí Võ Nguyên Giáp căn dặn: "Cố gắng làm việc thận trọng, giấy giới thiệu là đại diện Chính phủ ta bên cạnh các nước bạn bè, quyền hạn rộng lắm đấy". 

"Thư ủy nhiệm", được đánh máy trên giấy pơ-luya khổ A4, bằng bốn thứ tiếng Việt - Pháp - Trung - Anh, do quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng kí ngày 7/7/1946, có đoạn: "Chúng tôi, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, xin giới thiệu ông Nguyễn Đức Quỳ, phái viên của Chính phủ Việt Nam đi ra ngoại quốc để liên lạc với các nước hữu bang và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến sự thân thiện giữa các nước hữu bang với Việt Nam".

Đoàn phái viên Chính phủ Việt Nam lên đường, xuất phát từ Hải Phòng bằng tàu thuỷ qua Hongkong, đến Bangkok vài hôm trước kỉ niệm 1 năm Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 19/8/1946, Phái viên ra mắt kiều bào ta tại một ngôi chùa lớn do một sư cụ người Việt Nam trụ trì, được bà con kiều bào đón tiếp trọng thị, có cả quan chức địa phương tham dự.

Bà Nguyễn Thị Cúc (bên trái).

Từ khi Phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có mặt ở Bangkok, Chính phủ Thái Lan tuy không chính thức công nhận nhưng vẫn tiếp xúc và có thiện cảm với Phái viên Việt Nam. Nhân vật đầu tiên mà đồng chí Nguyễn Đức Quỳ tiếp xúc là ngài Thông In - Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế và là Tổng thư kí phong trào "Thái tự do". Sau khi nghe Phái viên trình bày một số nét tình hình Việt Nam và cuộc đấu tranh của nhân dân ta,  ngài Thông In nói: Chính phủ và nhân dân Thái Lan có nhiều thiện cảm với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.

Trong năm 1947, các cuộc tiếp xúc được mở rộng dần. Đồng chí Nguyễn Đức Quỳ đã gặp Thủ tướng Thái Lan Tham Rong tại nhà riêng của ngài Thông In, đồng thời có các cuộc tiếp xúc với nhiều nhân vật có thế lực trong chính quyền và quân đội Thái Lan. Kết quả của những cuộc tiếp xúc đầu tiên vượt quá sự mong đợi; Chính phủ Thái Lan đồng ý cho mở trụ sở của Phái viên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Bangkok, được treo Quốc kỳ Việt Nam.

Ban đầu, trụ sở Phái viên đặt trên đường đi Pạc Nam, sau chuyển về Lảng Xuổi, rồi lại chuyển đến một khu khang trang trên đường Xã Thon, gần với Sứ quán các nước Miến Điện, Liên Xô, Mỹ, Anh. Tranh thủ thời gian thuận lợi này, Phái viên quán đã đẩy mạnh công tác quyên góp tiếp tế về nước, đặc biệt là mua vũ khí. Chính quyền Thái Lan cũng đồng ý cho Việt Nam mở Phòng Thông tin Việt Nam, phát "Bản tin Việt Nam" bằng tiếng Anh và tiếng Thái tại Thái Lan và ra các nước khác trong khu vực.

Được sự ủng hộ của chính quyền Thái Lan, cán bộ Phái viên quán đã mua được nhiều vũ khí và đưa về nước an toàn. Kiều bào ta ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Chính phủ Cụ Hồ bằng những việc làm thiết thực.

Cùng với quyên góp mua hàng ngàn tấn vũ khí và máy móc, thiết bị chuyên dụng như máy in, thuốc nổ..., kiều bào còn góp sức người, lập các đội quân Cửu Long I, Cửu Long II, Trần Phú... được trang bị đầy đủ vũ khí, hành quân về nước tham gia kháng chiến.

Riêng Chi đội Trần Phú gồm 273 thanh niên ưu tú, được huấn luyện kĩ và tổ chức chặt chẽ, được chính quyền Thái Lan giúp trang bị tốt, cùng số tiền khoảng 20 vạn bạt để hành quân về Nam Bộ. Chi đội Trần Phú nổi tiếng chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công tại Tây Ninh, Mộc Hoá. Về sau, nhiều cán bộ của chi đội này đã trở thành nòng cốt cho một số đơn vị, trong đó có Tiểu đoàn 307 oai hùng.

Trong 5 năm tồn tại với tư cách là cơ quan đại diện đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở nước ngoài, Phái viên quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Thái Lan đã có nhiều hoạt động hiệu quả, góp phần vào thắng lợi cuộc kháng chiến, kiến quốc; đồng thời đặt nền móng cho mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Thái Lan.

Đầu tháng 11/1947, đồng chí Nguyễn Đức Quỳ lại gặp Thủ tướng Tham Rong; ngài Tham Rong khẳng định sẽ công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và ủng hộ phong trào giải phóng Đông Dương trong một hội nghị quốc tế gồm Thái Lan, Việt Nam, Lào, Indonesia, Miến Điện và Ấn Độ. Tuy nhiên, ngày 8/11/1947, Thủ tướng Tham Rong bị lật đổ bởi cuộc đảo chính do phái hữu tiến hành, nên tình hình có nhiều thay đổi, bất lợi cho hoạt động của Phái viên quán...

Đến đầu năm 1950, Chính phủ Thái Lan công nhận chính quyền Bảo Đại và cho chính quyền này đặt Sứ quán tại Bangkok. Từ đây, hoạt động của Phái viên quán gặp nhiều khó khăn, nên giữa năm 1951, Trung ương Đảng và Bác Hồ chỉ đạo Đoàn phái viên trở về Việt Bắc vào cuối tháng 8/1951.

Trần Duy Hiển
.
.
.