Nửa thế kỷ lưu lạc của một đời người

Thứ Bảy, 23/07/2005, 07:44

Bà con họ Bùi, thôn Đại Lai rất đỗi mừng vui đón một người con của dòng họ ra đi từ hơn nửa thế kỷ, nay đột ngột trở về. Đó là ông Bùi Văn Kệch 77 tuổi. Nhìn ông với đôi mắt mờ bạc, tâm tưởng lơ mơ, giọng lắp bắp, thân hình lọm khọm với một vết sẹo sâu hoắm trên đỉnh đầu, mọi người cũng phần nào hiểu được vì sao mãi tận cuối cuộc đời ông Kệch mới tìm được về quê mẹ!

Bức thư của Hội Cựu chiến binh xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định do anh Bốn Bông ký tên gửi ra là đầu mối để gia đình tìm đến địa chỉ nơi ông Kệch nương tựa trong quãng đời tuyệt vọng nơi đất khách quê người. Lần theo địa chỉ trong thư, người em trai và người cháu ruột của ông là Bùi Văn Tuyết và Bùi Văn Thành tức tốc lên đường vào xã Cát Tường, Bình Định đón ông Kệch.

Đêm ấy tại gia đình anh Sáu Út, dân làng An Xuân, Cát Tường đến rất đông, vì họ biết tin ông Kệch có người nhà ngoài Bắc vào đón. Căn nhà đơn sơ, chật hẹp, mà lòng người rộng mở mênh mông. Quanh ấm trà ấm áp, mọi người ôn lại những ngày đầu đón ông Kệch về đây. Qua họ, qua các anh Sáu Út và Bốn Bông trưởng thôn, người em và người cháu của ông Kệch vào đón, mới rõ ngọn nguồn vì sao ông không tìm được về gia đình, vì sao ông lại “neo buộc” cuộc đời mãi mãi ở cái mảnh đất miền Nam nhân nghĩa này. Vì sao lúc lên đường ông Kệch hứa với mẹ: “Con đi đánh giặc vài ba năm là con về”, thế mà mãi tận 53 năm sau ông mới về quê mẹ thì mẹ lại không còn.

Vào khoảng cuối tháng 12/1949, dân làng kể: Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt giữa bộ đội Việt Minh và quân địch tại làng An Xuân, xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Trong lúc mọi người đang xao xác, hốt hoảng, vừa thoát khỏi cảnh tượng quân địch càn quét vào làng, bỗng có hai anh bộ đội cáng một chiến sĩ đầu quấn băng trắng, máu loang đỏ, bất tỉnh đến bên mọi người. Một anh bộ đội từ tốn nói:

- Thưa dân làng, thưa bà con, chúng tôi là chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn... trong trận đấu đêm qua, một số anh em hy sinh. Chiến sĩ Bùi Văn Kệch bị thương rất nặng. Vì đơn vị còn phải tiếp tục chiến đấu truy quét quân giặc, nên chúng tôi xin gửi lại, nhờ bà con dân làng chăm sóc, chữa trị giúp. Sau chiến dịch này đơn vị chúng tôi sẽ quay lại đón anh Kệch.

Một già làng đỡ anh chiến sĩ và bảo:

- Các chú đã vì nhân dân mà phải đổ máu, cớ gì chúng tôi không giúp. Các chú cứ yên tâm đi làm nhiệm vụ. Chú chiến sĩ bị thương này, dân làng chúng tôi sẽ có trách nhiệm. Chúng tôi sẽ chữa trị vết thương và chăm sóc chú ấy.

Từ đó, anh Kệch được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của bà con cô bác làng An Xuân. Dân làng ở đây nghèo đói, thiếu thốn, nhưng tình người thì không thiếu. Họ góp gạo, góp tiền, mua thuốc chữa trị vết thương, chữa bệnh. Được thuốc men và chăm sóc chu đáo, vết thương của anh chiến sĩ dần dần lành lại. Sức khỏe cũng dần dần được phục hồi. Nhưng ác thay, mảnh đạn sâu hoắm trên đỉnh đầu đã để lại di chứng rất nặng nề đã cướp mất âm thanh giọng nói và trí nhớ của anh. Kệch trở thành người vô thức, vô lời. Anh ngẩn ngơ và quên hết mọi thứ.

Dân làng An Xuân chờ mãi vẫn không thấy đơn vị anh quay lại đón. Về sau mọi người mới hay: sau trận đánh địch tại làng An Xuân, đơn vị của Bùi Văn Kệch tiếp tục bước vào những trận chiến đấu mới gay go quyết liệt hơn. Hầu hết các chiến sĩ của đơn vị đều hy sinh. Cả hai anh chiến sĩ khiêng Kệch gửi lại dân làng cũng không còn. Số ít người sống sót bị thương, rồi thuyên chuyển mỗi người mỗi nơi. Và chẳng ai còn nhớ tới anh chiến sĩ gửi lại ở làng An Xuân, xã Cát Tường ngày trước. Rồi năm tháng qua đi, hết Pháp đến Mỹ ồ ạt nhảy vào miền Nam, Bùi Văn Kệch vẫn âm thầm, lặng lẽ sống với dân làng và anh trở thành người dân của làng An Xuân, Phù Cát - một người dân tật nguyền. Có người gọi Bùi Văn Kệch là ông Hai Câm.

Tuy bị thương nặng, vô thức và không nói được thành lời, nhưng ngày còn trẻ, Bùi Văn Kệch vẫn đi lại và làm lụng được. Anh rất chịu khó. Dân làng bàn cách lập cho anh một gia đình riêng. Người góp công, góp tiền; người góp vật liệu, tre, nứa, dựng cho anh một căn nhà hai gian rồi họ cho anh hai sào ruộng và thay phiên đến cày, cấy, gặt hái giúp anh. Rồi mọi người định vun vén cho anh một tổ ấm gia đình. Ông Tư Hiền cùng tuổi, ngày ngày thường qua lại chơi với anh, cho biết:

- Ngày ấy dân làng định cưới cho cậu ấy một người vợ. Nhưng khi nói đến chuyện vợ con, cậu ấy chỉ lảng đi, thỉnh thoảng lại lắc đầu. Hình như cậu ấy có lúc cũng biết, nhưng không nói nên lời. Một hôm tôi bảo: “Này, lấy vợ đi. Lấy vợ để sau này già yếu có người nâng đỡ".  Cậu ấy lắc lắc.

Ông Tư Hiền nói tiếp:
- Tôi lại hỏi: hay là Kệch có vợ, có con rồi phải không?
Cậu ta nhìn tôi rất lâu, rồi hai hàng nước mắt ứa ra, khẽ gật.
- Tôi hỏi: thế vợ con ở đâu?
Cậu ta không nói được gì.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa. Chiến tranh rồi cũng khép lại. Những năm tháng hòa bình, Ban chính sách và nhân dân Cát Tường đã nhiều lần làm thủ tục đề nghị cấp trên xét giải quyết chính sách thương tật cho Bùi Văn Kệch. Nhưng giấy tờ chứng nhận bị thương của anh không có. Đơn vị gốc không còn và cũng chẳng rõ ở đâu. Một vài người chỉ còn nhớ hồi đó có hai anh chiến sĩ khiêng Kệch đến gửi dân làng chữa trị giúp và nói họ ở đơn vị Tiểu đoàn 1... Còn trung đoàn mấy, sư đoàn mấy... thì chẳng ai nhớ được. Không được hưởng chế độ thương tật, nhưng do tình trạng sức khỏe quá yếu, vết thương quá nặng, Bùi Văn Kệch được xét hưởng chế độ trợ cấp xã hội thường xuyên. --PageBreak--

Vào những năm 1990, Bùi Văn Kệch bước vào tuổi “xưa nay hiếm”. Ở cái tuổi bảy mươi, sức kiệt, thần kinh bất ổn, âm thanh bất thường, ông không còn tự chủ được sinh hoạt trong cuộc sống của mình. Tất tật mọi công việc từ cày cấy, gặt hái ngoài đồng, đến thổi nấu, giặt giũ, tắm rửa, ngày ngày mọi người phải thay nhau đến trông nom, chăm sóc ông.

Cuối năm 1995, anh Sáu Út xóm trưởng đã quyết định đón ông Kệch về nhà mình nuôi. Bà con trong xóm xúm lại dựng cho ông một căn nhà riêng trên đất của anh Sáu để gia đình anh ngày đêm tiện trông nom ông. Nhiều đợt ông Kệch ốm nằm liệt giường, vợ chồng anh Sáu Út không quản ngại, bón cháo, sắc thuốc chăm sóc ông như người ruột thịt. Rồi bệnh tật của ông Kệch dần dần được phục hồi. Người ông tỉnh táo hơn. Thỉnh thoảng ông lơ mơ nhớ được chút ít và lắp bắp nói được đôi lời. Một hôm, anh Sáu Út bảo:

- Tôi vừa bưng bát cháo vào cho ông, tự dưng ông gọi tên tôi: "Anh... Út... ơi, tôi nói được rồi!... Tôi nhớ... ra rồi!".

Tôi mừng quá liền hỏi:
- Ông nhớ ra gì cơ?
- Nhớ quê... quê tôi...
- Quê ông ở đâu? - Tôi hỏi dồn.
- Ở... Tổng Tri... Lai... Thư Trì... Thái Bình... anh ạ.

Tổng Tri Lai... Cái địa danh bao năm trời quên lãng, bao năm trời chờ mong, gần cuối đời ông Kệch mới hồi nhớ ra nó, mới gọi được tên quê mẹ bằng chính tiếng nói của mình. Và nhờ cái địa danh ông Kệch nhớ ra, anh Bốn Bông đã biên thư gửi ra báo tin cho gia đình và địa phương của ông. Tổng Tri Lai thời ông Kệch ra đi nay là xã Phú Xuân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Sáng ngày 15/6/1997, bà con dân làng An Xuân, huyện Cát Tường, tỉnh Bình Định tập trung rất đông tại gia đình anh Sáu Út tiễn chân ông Bùi Văn Kệch trở ra Bắc. Trong giờ phút chia tay, tuy giọng nói còn lắp bắp, hai mắt ông rưng rưng, ông nhìn khắp lượt từng người một như để bày tỏ, tạ ơn tấm lòng cưu mang của họ đối với ông. Ông Tư Hiền một tay chống cây gậy, một tay nắm chặt tay người bạn già, quay ra nói với dân làng và người thân của ông Kệch:

- Ông Kệch là bộ đội Việt Minh đã chiến đấu và đổ máu ở cái mảnh đất này, tại cái làng này. Do vết thương hiểm nghèo đã làm ông quên hết nên ông phải chịu thiệt thòi. Chế độ chính sách chưa được hưởng. Anh em, bố mẹ, vợ con chưa tìm thấy. Mặc dù đã được dân làng ta cưu mang giúp đỡ, nhưng vẫn không bù được sự hy sinh quá lớn của ông. Nay ông được trở về đoàn tụ với gia đình, tôi mong địa phương ngoài đó hết lòng quan tâm chăm sóc để ông đỡ khổ.

Ông Tư Hiền đặt cây gậy vào bàn tay ông Kệch, hai tay ông run run. Ông nói tiếp:
- Ông ra ngoài đó, tôi chẳng có gì cho ông. Tôi tặng ông cây gậy này. Cây gậy tôi thường chống sang chơi với ông. Ông dùng nó để đi lại cho tiện. Mỗi khi chống gậy, ông hãy nhớ tới người bạn già ở cái làng An Xuân, Bình Định này.

Bác Bốn Bông trưởng thôn lấy ra một bộ quần áo kaki còn rất mới. Bác nói giọng nghẹn ngào:
- Thưa bà con, ông Bùi Văn Kệch vì chiến tranh mới phải cách biệt gia đình về sống với làng ta, đến nay đã gần trọn một đời. Trước khi ông về Bắc, chúng tôi có trích quỹ của làng  may tặng ông một bộ quần áo bộ đội. Hơn 50 năm trước dân làng ta đón ông, lúc ấy ông là một chiến sĩ quân đội, mặc quân phục chỉnh tề. Nay tiễn ông về quê, ông mặc bộ quân phục này càng thêm ý nghĩa. Bộ quần áo là tấm lòng của người dân An Xuân đối với ông.

Anh Bốn Bông giở bộ quần áo ra và mặc luôn cho ông Kệch. Ông lúng túng trong bộ quân phục màu xanh mà hơn 50 năm trước ông đã từng mặc, rồi quay sang nhìn mọi người. Dân làng quây quần chung quanh một “anh bộ đội già”.--PageBreak--

Hơn nửa thế kỷ lưu lạc, anh bộ đội Bùi Văn Kệch mới tìm được về quê mẹ ở Thái Bình. Dẫu quá nửa đời người ông được dân làng An Xuân, tỉnh Bình Định chăm sóc, nuôi dưỡng, nhưng được về sống nơi quê cha đất mẹ, ông Kệch thấy lòng phấn chấn hẳn lên. Ông ngày càng tỉnh táo hơn, giọng nói của ông ngày một rành rõ hơn. Những hình ảnh xa xưa một thời gian dài chỉ lãng đãng trong trí tưởng tượng nay ông đã hình dung ra.

Ông cố nhớ lại rồi lần lần kể cho họ hàng và bà con làng xóm về quãng đời 53 năm phiêu bạt. Những ngày ông cùng đơn vị chiến đấu ở Quảng Ngãi và ở Bến Cát, tỉnh Bình Định. Chuyện ông bạn già Tư Hiền, ông  Bốn Bông, Sáu Út cùng dân làng An Xuân che chở đùm bọc ông. Đặc biệt ông kể về đoạn “cốt nhục” của đời ông, về những ngày ngắn ngủi sống trong hạnh phúc của tổ ấm gia đình làm mọi người đều bất ngờ và cảm kích.

Ông Bùi Văn Kệch nhớ lại, năm 1946, đơn vị của Kệch đóng quân ở Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Gần nơi đóng quân có cô gái tên là Phạm Hương Lan, thấy anh bộ đội Bùi Văn Kệch hiền lành, đẹp trai, ít nói, hay giúp đỡ dân nên đã đem lòng yêu anh. Cảm động trước tình cảm của người con gái miền Nam xinh đẹp, thật lòng, Bùi Văn Kệch đáp lại tình yêu ấy. Đơn vị biết chuyện hai người yêu nhau tha thiết, nên đã đứng ra tổ chức đám cưới cho Kệch và Lan. Ở mặt trận Quảng Ngãi rất xa miền Bắc ngày đó đang có chiến tranh, Bùi Văn Kệch không thể báo tin vui đó cho cha mẹ và gia đình biết được.

Tháng 2/1947, vợ ông sinh con trai đầu lòng. Cuối năm 1948, lại sinh con thứ hai là con gái. Vợ chồng ông đặt tên con trai là Bùi Văn Sung, con gái là Bùi Thị Túc, với hy vọng sau này các con sống sung túc hơn cha mẹ của nó. Cuối năm 1949, đơn vị của ông chuyển vào Phù Cát, Bình Định, khi ấy đứa con út của ông mới được 1 tuổi. Tạm biệt vợ con, Bùi Văn Kệch hành quân theo đơn vị đi chiến đấu, rồi ông bị trọng thương. Từ đấy, ông không nói được, không còn nhớ gì cái tổ ấm có người vợ hiền xinh đẹp và hai đứa con còn thơ dại.

Kể đến đây ông Kệch ngồi khóc. Nhiều người cảm động cũng khóc theo. Rồi sau đó tất cả cùng lặng đi. Ông Kệch nói tiếp, giọng run run:

- Khi tôi quên hết mọi thứ, không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi cũng chẳng biết tôi ở đâu mà tìm kiếm. Chẳng biết tôi còn hay mất. Hơn 20 năm sống trong bom đạn của quân giặc, không biết vợ con tôi còn sống hay không. Nếu còn, bà ấy  năm nay cũng đã 70 tuổi, hai đứa con tôi cũng vào tuổi 50 rồi...

Nghe ông Kệch kể lại chuyện đời tư của mình, ông Để, bà Tuyết và những người ruột thịt của ông vừa mừng, vừa thương. Thương cho số phận của vợ chồng ông. Ông Tuyết an ủi:

- Bác cứ yên tâm, chúng em sẽ vào Quảng Ngãi tìm bác gái và hai cháu. Đồng bào trong ấy rất tốt, đã cưu mang bác suốt cả cuộc đời, chắc họ cũng sẽ cưu mang bác gái và hai cháu nhà ta. Nhất định chúng em sẽ tìm được mà.

Bà em dâu tiếp lời:

- Biết đâu cháu Sung bây giờ đã là cán bộ quân đội và cháu đang đi tìm bố cháu. Em tin anh chị và hai cháu thể nào cũng có ngày sum họp.

Nghe mọi người nói, ông Kệch rân rấn nước mắt. Ông đứng dậy lững thững bước ra ngoài ngõ, hướng về phía con đường có hàng tre xanh cao vút. Hẳn ông đang khát khao mong chờ người vợ và hai con.

Hơn 50 năm mang trên mình vết thương hiểm nghèo, ông Bùi Văn Kệch chưa được hưởng chế độ thương tật, chưa được hưởng cả chế độ quân nhân phục viên. Chỉ có một quyền lợi duy nhất, ngay sau khi trở về làng, nhờ Hội Cựu Chiến binh xã Phú Xuân nhiệt tình giúp đỡ, ông được công nhận là hội viên Hội Cựu Chiến binh Việt Nam.

Ngày ông sống với dân làng An Xuân ở Bình Định, do vết thương quá nặng, dân làng An Xuân đã làm đơn đề nghị cho ông đi khám thương để hưởng chế độ thương binh. Khốn thay, nhân chứng là hai anh bộ đội khiêng ông gửi lại dân làng khi ông đang thập tử nhất sinh đã không còn, đơn vị của ông cũng không còn.

Khi trở về quê mẹ, thấy ông già yếu, vết thương lại luôn tái phát, anh em ruột thịt của ông đã làm đơn đề nghị. Rồi sau đó ông Bùi Văn Kệch trực tiếp làm đơn trình bày hoàn cảnh, thương tích của mình và đề nghị các cơ quan chính sách xem xét giúp đỡ. Nhưng các cơ quan chính sách tỉnh, huyện bao giờ cũng  thận trọng. Không có nhân chứng xác nhận, nên thủ tục làm chế độ của ông vẫn còn chờ đợi xác minh, xem xét.

Hơn 2 năm trôi qua, khi đang chờ đợi xét chế độ, đột nhiên vết thương trên đầu ông tái phát rất nguy kịch. Ông sốt cao, đau đớn, vật vã hàng tháng trời. Khi hết sốt, hết đau, ông lại quên tất cả như hơn 50 năm trước ông đã từng quên cái làng quê nơi ông sinh ra. Anh em ruột thịt, những người đón ông về ngồi bên, ông không còn nhận ra họ là ai. Ông quên cả người vợ và hai con chưa tìm thấy mà mới hôm nào ông ngồi khóc, kể lại. Hơn một tháng sau, ông Bùi Văn Kệch thanh thản về với cõi vĩnh hằng 

Minh Chuyên
.
.
.