Người trí thức phải sống như thế

Chủ Nhật, 15/11/2009, 15:41
Gần đây có rất nhiều bài báo viết về người trí thức. Tôi rất thích thú với nhận xét của một GS khả kính: Dù là Interllectual ở phương Tây hay Kẻ Sĩ ở Phương Đông, người trí thức ở đâu và bao giờ cũng là người có học vấn cao và có ý thức trách nhiệm sâu sắc với xã hội của mình đang sống. Tôi nhận ra nhận xét này rất đúng với một trí thức mà tôi vô cùng kính trọng. Rất đau xót, giờ phút này ông đã giã từ cuộc sống sau cơn thử thách khốc liệt của bệnh tật. Đó là Giáo sư, Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng Lao động Từ Giấy.

Gần ông trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước, tôi bị cuốn theo tinh thần và nghị lực của ông. Tôi đã dành cả phòng thí nghiệm của mình và huy động toàn bộ lực lượng của Bộ môn cùng cán bộ chiến sĩ của ông tham gia nghiên cứu những vấn đề rất thiết thực về lương thực, thực phẩm, nước uống… phục vụ trực tiếp cho chiến trường. Qua những năm tháng được gần gũi ông, tôi thấy thấm thía ý nghĩa của danh hiệu người trí thức.

Là con một mà bố lại mất sớm, bà mẹ quí hóa của ông đã tần tảo nuôi ông ăn học thành người. Ông đã trải qua một tuổi thơ gian khổ và nghèo khó. Nhưng với lòng ham học và với tất cả sự hy sinh cho con của một người mẹ, ông đã đến với con đường học vấn với tất cả quyết tâm sắt đá.

Học chữ Nho ở trường làng rồi mới học chữ Quốc ngữ để lấy bằng Sơ học, sau đó lên huyện học hết bậc tiểu học rồi lên Hà Nội thi vào Trường Bưởi và theo đuổi suốt 7 năm để có bằng Tú tài Toán. Ông vào Trường Y và thật có chí lớn mới có được tấm bằng bác sĩ. Tôi nhớ rằng hồi đấy với đầu vào là 200 sinh viên, đầu ra chỉ có 7 người, trong đó có ông. Những ngày chủ nhật và ngày lễ, ông đều về huyện dạy thêm để có tiền ăn học.

Ngày khởi nghĩa tháng 8, ông mới có 24 tuổi với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ, ông đã xung phong nhập ngũ và tham gia vào đoàn quân Nam Tiến. Đang ham muốn trở thành một nhà phẫu thuật nhưng chiến trường miền Nam lúc ấy thôi thúc ông phải nhận nhiệm vụ phòng chống sốt rét và ông không ngờ về sau ông trở thành cây đại thụ trong lĩnh vực vệ sinh phòng dịch.

Khi trở lại chiến khu Việt Bắc, ông khai trương ra tờ báo Vui Sống và lấy bút danh là Lang Khoai. Ngày ấy cơ quan bố tôi cũng có tờ báo này và tôi rất thích thú với những câu trả lời vừa khoa học, vừa dí dỏm, vừa dễ hiểu của ông. Tôi còn nhớ có chiến sĩ đã xin lỗi để hỏi ông về chuyện đánh rắm, ông trả lời: Việc gì phải xin lỗi, đó cũng chỉ là một sự thoát hơi giống như ho thôi mà! Sau đó ông mới giải thích kỹ càng về cơ chế trung tiện và các hiểm nguy khi tắc ruột.

Sau này, khi phụ trách chuyên mục Hỏi gì đáp nấy  thường xuyên trên báo Nông nghiệp Việt Nam, tôi luôn lấy cách trả lời trên báo Vui Sống của ông khi xưa để làm mẫu mực. Ông trở thành một nhà báo đúng nghĩa và là một nhà báo đàn anh đáng để cho các nhà báo trẻ noi gương. Năm 1950, với tư cách Ủy viên BCH Hội những người viết báo VN, ông đã được vinh dự lên chúc thọ Bác Hồ. Ông thường đưa rất nhiều ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào trong các bài viết, cho nên bài nào cũng sinh động, gần gũi với nhân dân và làm độc giả vừa vui thích, vừa nhớ lâu.

 Trong chiến dịch Điện Biên lịch sử, ông được giao trọng trách làm Trưởng ban Bảo vệ sức khỏe cho cán bộ và chiến sĩ. Hồi đó, các chiến sĩ kể chuyện khi tham gia cứu chữa cho các thương binh Pháp, ông còn chịu khó thu nhặt các thư từ của các binh sĩ Pháp vì nghĩ rằng sau này sẽ gửi trả lại cho gia đình họ.

Hòa bình lập lại, quân đội điều ông về giảng dạy tại Đại học Quân Y và từ đó ông là người tiên phong trong việc xây dựng nên ngành học Vệ sinh quân đội mà ông là Chủ nhiệm đầu tiên. Ông thường xuyên tham gia giảng dạy cho Đại học Y Hà Nội và được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm đầu tiên của bộ môn Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm.

Kiến thức phong phú mà ông có được là do tự học là chính, nhưng cấp trên cũng đã tạo điều kiện cho ông sang tu nghiệp tại Liên Xô trong thời gian từ 1957-1961. Người  khác đi học chỉ cốt lấy bằng cấp, còn ông chỉ chuyên tâm đi sâu tìm hiểu khoa học hiện đại về dinh dưỡng học và về vệ sinh phòng dịch.

Ông là vị giáo sư không có bằng cấp trên đại học nhưng lại là người đào tạo khá nhiều thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước. Ít giáo sư hiện nay sử dụng tốt 5 ngoại ngữ như ông (Anh, Pháp, Nga, Trung và Tây Ban Nha). Ông có rất nhiều công trình khoa học phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của bộ đội và nhân dân, nhưng ông không quên để tâm viết những sách giáo khoa có hàm lượng khoa học cao.

Tôi nhớ đến cuốn Phương pháp nghiên cứu khoa học trong y học mà ông viết chung với GS. Nguyễn Thiện Thành và được đích thân GS. Tạ Quang Bửu viết lời giới thiệu.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ với cương vị Đại tá, Cục phó Cục Quân nhu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ăn mặc quân đội, ông toàn tâm toàn ý cùng tập thể lao vào nghiên cứu đủ mọi đề tài liên quan đến việc ăn uống, việc mặc, việc giữ gìn vệ sinh trong quân đội.

Ngày ấy, tại cơ sở số 9 Hai Bà Trưng của Trường Đại học Tổng hợp, ông không chỉ lấy phòng thí nghiệm của tôi để đưa cán bộ đến hợp tác nghiên cứu, mà bản thân ông và bà Hiếu, vợ ông, cũng tới sống ngay ở đây để trực tiếp chỉ đạo công việc.

Ông đã vào chiến  trường nhiều lần và các cuốn sách nhỏ cùng các sản phẩm mới do các đề tài nghiên cứu của ông đã thiết thực phục vụ cho cuộc sống của hàng chục vạn chiến sĩ. Đó là các đề tài về rau rừng ăn được, bảo quản gạo, lương khô chiến trường, men nở bột mỳ, nước giải khát lên men, thức ăn tổng hợp. Và ông đã có mặt ngay tại Sài Gòn ngày thống nhất đất nước.

Một sáng kiến có thể nói là rất lớn của ông là việc phát minh ra mô hình VAC - một đáp án cho bài toán cải thiện bữa ăn, phòng chống suy dinh dưỡng và góp phần thiết thực xóa đói giảm nghèo. Đấy không chỉ là một khẩu hiệu giản đơn mà là cả quá trình nghiên cứu sâu sắc về dinh dưỡng, về vệ sinh, về nông nghiệp và về xã hội. Chính nhờ những quá trình nghiên cứu sâu rộng đó mà ông trở thành Viện trưởng đầu tiên của  Viện Dinh dưỡng và  tận tụy xây dựng  thành một viện nghiên cứu quốc gia lớn mạnh cho tới tận tuổi nghỉ hưu.

VAC không chỉ là vườn ao chuồng mà còn là bài học được phổ biến rộng rãi sang nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Trong đó, V là Vegetation không chỉ là vườn mà là các cây trồng phục vụ cho đời sống, A được hiểu là Aquaculture, nghĩa là mọi hoạt động nuôi trồng thủy hải sản, còn C được hiểu là Cage for animal breeding, nghĩa là chăn nuôi không chỉ gia súc gia cầm, mà cả ong, chim … V liên quan đến cây trồng, A có liên quan tới nước và C có liên quan tới phân, đây là 3 yếu tố quan trọng hàng đầu trong nông nghiệp.

Đánh giá về VAC, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: Tôi còn hy vọng và tin rằng những người làm việc trong cả nước ra sức thực hiện thắng lợi chủ trương, góp phần xứng đáng vào mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì đánh giá là: Hoan nghênh các đồng chí đã gắn việc cải tiến cơ cấu bữa ăn với việc xây dựng hệ sinh thái VAC. Và ngoài VAC gia đình, đã có kế hoạch xây dựng VAC tập thể của hợp tác xã, VAC y tế, VAC vườn trẻ, VAC trường học - thực hiện không phải trường chỉ dạy chữ mà còn lo dạy nghề, dạy làm người.

Hiện nay, chúng ta có không ít người có học vị trên đại học, có không ít các Viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học, nhưng nhìn lại thì sao thấy vẫn quá ít các thành tựu khoa học đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Các công trình đó không nhất thiết phải là các công trình cao siêu, đạt trình độ quốc tế, mà trước hết phải đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân mình, Tổ quốc mình. Tấm gương của GS.Từ Giấy đáng để cho tất cả chúng ta noi theo.

Tôi thiết nghĩ, ngoài Huân chương Độc lập hạng Nhì mà Nhà nước đã trao tặng, Chính phủ nên nâng cấp các công trình nghiên cứu của ông từ mức giải thưởng Nhà nước lên mức giải thưởng Hồ Chí Minh. Đó là chuyện khẳng định lại ý nghĩa của các công trình nghiên cứu tuy không tập trung nhưng đã đem lại sự cống hiến thiết thực cho quân đội và cho đông đảo nhân dân ta.

Xin thắp một nén hương thơm để tưởng nhớ và vĩnh biệt ông, một hình ảnh cao đẹp của một nhà trí thức lớn.

Bộ Y tế và Gia đình vô cùng thương tiếc báo tin:
Giáo sư Từ Giấy, Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
Sinh năm 1921, quê quán Khê Hồi, Hà Hồi, Thường Tín, Hà Nội; trú quán tại Khu tập thể 12A Lý Nam Đế, Hà Nội; nguyên Viện trưởng sáng lập Viện Dinh dưỡng quốc gia, đã từ trần hồi 8h40' ngày 13/11/2009 (tức ngày 27/9 năm Kỷ Sửu) tại Bệnh viện TW Quân đội 108, hưởng thọ 89 tuổi.
Lễ viếng được tổ chức từ 7h đến 9h30' thứ 4, ngày 18/11/2009 tại Nhà Tang lễ Bộ Quốc phòng (số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội).
Lễ truy điệu và đưa tang vào hồi 9h30' cùng ngày.
An táng tại nghĩa trang Thanh Tước, Hà Nội.
Bộ Y tế và các con Từ Đễ, Từ Linh, Từ Ngữ đồng kính báo.

.
.
.