Người nữ đại biểu Quốc hội đầu tiên của Thủ đô Hà Nội

Chủ Nhật, 23/01/2011, 12:00
Năm 1946, bà Nguyễn Thị Thục Viên được bầu vào Quốc hội khóa đầu tiên, là Ủy viên dự khuyết, rồi Ủy viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội và ở trong Tiểu ban dự thảo Hiến pháp lần thứ nhất. Bà Nguyễn Thị Thục Viên là nữ đại biểu quốc hội đầu tiên của thủ đô Hà Nội và là thành viên nữ duy nhất trong Ban soạn thảo Hiến pháp 1946.

Trong số 333 đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu (6/1/1946), có 10 đại biểu nữ. Mặc dù, số lượng đại biểu nữ chỉ chiếm 3%, song đó là những nữ cán bộ Đảng ưu tú xuất sắc ở các địa phương từ Bắc tới Nam như: Vũ Thị Khôi (Bắc Ninh), Trương Thị Mỹ (Hà Đông), Bùi Thị Diệm tức Lê Phương (Hải Dương), Cao Thị Khương (Hưng Yên), Tôn Thị Quế (Nghệ An), Lê Thị Xuyến (Quảng Nam), Trịnh Thị Miếng (Gia Định), Nguyễn Thị Thập (Mỹ Tho) và Ngô Thị Huệ (Bạc Liêu). Riêng đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thục Viên (Hà Nội) là một phụ nữ trí thức ngoài Đảng.

1. Gây dựng tình yêu nước trên mảnh đất nở hoa

Tôi đã có cuộc gặp gỡ với họa sĩ Trần Thị Thục Phi, là con gái út của nhà giáo Nguyễn Thị Thục Viên, để tìm hiểu thêm về cuộc đời nữ đại biểu Quốc hội đầu tiên của Thủ đô Hà Nội.

- Mẹ tôi tuy người có học có hành nhưng cũng vất vả chứ không phải được thảnh thơi - họa sĩ Trần Thị Thục Phi bắt đầu câu chuyện.

Tuổi trẻ cô nữ sinh trường Đồng Khánh Nguyễn Thị Thục Viên luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, được thầy cô và bạn bè yêu mến. Nỗi vất vả bắt đầu vào năm cô 17 tuổi, cha mất, 5 em trai còn nhỏ, cô vừa giúp mẹ tần tảo nuôi em, vừa tiếp tục học lên Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, cô được bổ nhiệm về Nam Định dạy học. Giảng dạy xuất sắc, cô được chuyển lên Hà Nội, dạy tại Trường Nữ học Đồng Khánh.

Trong hồi ký 75 năm Trường Nữ học Đồng Khánh (1917-1992), những học trò của cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên nhớ lại:

"Trước Cách mạng tháng Tám 1945, khi giảng dạy ở các trường nữ học Nam Định, Đồng Khánh, bà giáo Nguyễn Thị Thục Viên là một nhà sư phạm mẫu mực, luôn luôn giữ thái độ khảng khái, cương trực, tự trọng, ghét thói xu nịnh, luồn cúi, đem hết nhiệt tình đào tạo nữ sinh. Chẳng những nghiêm túc trong việc truyền thụ kiến thức cho thế hệ tương lai, bà còn đặc biệt quan tâm khuyên bảo học sinh giữ nền nếp trong sáng, cần cù, dịu dàng, tế nhị của người phụ nữ Việt Nam. Bà là niềm tự hào, là tấm gương sáng của nữ sinh Đồng Khánh (…).

Cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên nghiêm nghị, đĩnh đạc, quần áo chỉnh tề. Mùa rét cô thường mặc chiếc áo dài len màu huyết dụ, áo ba-ga đen, mùa hè chiếc áo dài lụa trắng tinh khiết. Từ mái tóc, vành tai, cái gì ở cô cũng toát lên vẻ sạch đẹp, đến bà đốc (Hiệu trưởng) Bra-sê mỗi lần gặp cô đều thốt lên với vẻ hài lòng: "Voilà vous, toujours comme un sou neuf" (Chào bà, lúc nào bà cũng sạch bóng như một đồng xu mới)".

Lễ ra mắt đồng bào Thủ đô Hà Nội của 6 vị đại biểu Quốc hội khóa I: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Đức, Trần Duy Hưng, Nguyễn Văn Luyện, Vũ Đình Hòe và Nguyễn Thị Thục Viên.

Đồng Khánh là trường nữ học duy nhất ở Bắc Kỳ nên các quan chức mỗi khi có dịp công cán ra Hà Nội đều ghé thăm. Một ngày mùa đông năm 1938, quan chức của triều Nguyễn tháp tùng Nam Phương hoàng hậu đến thăm trường. Hoàng hậu đẹp lộng lẫy, uy nghi trong chiếc áo dài nhung màu lam sẫm, khăn vành dây thắm vàng trên mái tóc đen mượt, giày kinh cổ kính, bệ vệ. Hoàng hậu đến từng lớp, bà dừng lại hơi lâu ở lớp của cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên. Các giám thị của trường, một số nhân viên nhà trường tò mò kéo đến ngấp nghé ngoài hành lang. Mọi người được chứng kiến cảnh khi Nam Phương hoàng hậu bước vào lớp, cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên vẫn đứng trên bục giảng, chìa tay bắt tay hoàng hậu đứng ở dưới và tiếp tục giảng bài.

Hoàng hậu hỏi một câu gì đó, và cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên giới thiệu cho bà nữ sinh giỏi nhất lớp: Nguyễn Thị Thứ (sau này là vợ cố GS.NGND Nguyễn Văn Chiển - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam). Khi Nam Phương hoàng hậu rời khỏi trường, có người hỏi hoàng hậu về cảm tưởng của bà đối với trường nữ học, bà trả lời ngắn gọn: "C'est un parterre fleuri" (Đây là một mảnh đất nở hoa)". Trên mảnh đất nở hoa ấy, cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên đã ươm mầm tình yêu nước cho một thế hệ học trò về sau đã tham gia vào công tác cách mạng: Bà Cao Thị Nga (công tác tại Báo Nhân Dân), bà Nghiêm Chưởng Châu (Thứ trưởng Thường trực Bộ Giáo dục và Đào tạo), GS Lê Thi (nguyên Viện trưởng Viện Triết học), bà Nguyễn Thị Như - nguyên Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam…

2. Người nữ đại biểu Quốc hội đầu tiên của Thủ đô Hà Nội

Cách mạng tháng Tám thành công, ngay từ những năm đầu chính quyền cách mạng còn trong trứng nước, bà giáo Nguyễn Thị Thục Viên đã phát huy vai trò một trí thức yêu nước. Bà được giao làm Hiệu trưởng Trường Đồng Khánh, lúc đó được đổi tên là Trường Hai Bà Trưng.

Năm 1946, bà được bầu vào Quốc hội khóa đầu tiên, là Ủy viên dự khuyết, rồi Ủy viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội và ở trong Tiểu ban dự thảo Hiến pháp lần thứ nhất. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thục Viên là thành viên nữ duy nhất trong Ban soạn thảo Hiến pháp 1946.

Họa sĩ Trần Thị Thục Phi nhớ lại: “Mẹ tôi vốn không phải là người hoạt động chính trị. Một thời gian dài công việc chỉ là nhà giáo. Một nhà giáo nói chung cũng được học sinh yêu mến. Tính tình khảng khái, thẳng thắn, tự lập, mẹ tôi không có xu nịnh. Còn giảng dạy chắc là cũng như mọi thầy cô giáo khác thôi. Tuy nhiên, mẹ tôi có điều kiện đến với cách mạng. Khi còn học Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, cùng lớp với mẹ tôi có ông Đặng Thai Mai. Hai người rất thân. Trong tình thân ấy có tình yêu nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông Đặng Thai Mai đến gặp, khuyên mẹ tôi nên ra ứng cử Quốc hội. Ban đầu mẹ tôi rất sợ chứ. Bởi vì một người bình thường tự nhiên ra làm nghị sĩ Quốc hội, thì không hiểu thế nào. Sau ông ấy nói khẩn thiết lắm. Mẹ tôi thấy rằng đặt vấn đề như thế là nghiêm túc, nên cụ ra ứng cử Quốc hội và trúng cử. Bà cụ vào Tiểu ban Hiến pháp. Tiểu ban Hiến pháp đứng đầu là Cụ Hồ.

Mẹ tôi tham gia hoạt động Quốc hội là như vậy. Trước đây cụ là một trí thức được cách mạng tin cậy giao cho chức Hiệu trưởng Trường nữ học, thế rồi vận động ra làm nghị sĩ Quốc hội thì cũng là tin cậy vào sự đúng mực và lòng yêu nước của cụ. Từ đấy mẹ tôi hoàn toàn tin tưởng và tham gia hoạt động cách mạng".

Toàn quốc kháng chiến nổ ra, từ biệt Thủ đô để ra đi, bà chỉ mang theo một gói quần áo nhỏ, để lại mọi của cải vật chất và cuộc sống đầy đủ, tiện nghi. Cùng với hai bà Lê Thị Xuyến và bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng, người phụ nữ trí thức Nguyễn Thị Thục Viên đã hòa mình vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Ba bà rong ruổi đi các nơi tổ chức mít tinh, nói chuyện cách mạng và tuyên truyền kháng chiến... Lặn lội vào vùng quê hẻo lánh, những vùng núi xa xôi, khi trèo đèo lội suối, khi ăn cơm muối, nằm ổ rơm, bà vẫn ung dung tự tại, lạc quan, lấy tấm gương của nhân dân kháng chiến để động viên mình kiên trì cách mạng.

Trong kháng chiến chống Pháp, mặc dù phải gánh vác những trọng trách của Nhà nước, đoàn thể, bà giáo Nguyễn Thị Thục Viên vẫn tiếp tục giảng dạy và phụ trách các trường trung học kháng chiến và sư phạm, góp sức đào tạo cán bộ cho kháng chiến. Bà được Ty Giáo dục Liên khu 10 (do nhà giáo Nguyễn Lân làm Giám đốc) bố trí làm Hiệu trưởng Trường Thi Sách (sau gọi là Trường Tân Trào).

Ngày 29/5/1947, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ra Nghị định số 145/NĐ thành lập trường Trung học Kháng chiến Chu Văn An ở Đào Giã - Phú Thọ (do Giáo sư Trần Văn Khang làm Hiệu trưởng), trường trung học chuyên khoa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khai giảng sau ngày Toàn quốc kháng chiến, Liên khu điều bà sang trường Trung học Kháng chiến.

GS.NGND Ngô Thúc Lanh (nguyên Trưởng khoa Toán, Trường ĐHSP Hà Nội) vốn là một trong 4 giáo viên trẻ nhất được gọi vui là "Tứ tử trình làng": Dự - Lanh - Hoàn - Bái (Vũ Trường Dự, Ngô Thúc Lanh, Phạm Văn Hoàn, Dương Trọng Bái), nhớ lại "cái thuở ban đầu" mới xây dựng trường Trung học Kháng chiến Chu Văn An (1948): "Cô giáo Nguyễn Thị Thục Viên dạy văn - sử nghiêm khắc mà giàu lòng, cô vẫn dạy giỏi dù bận cả công việc của một thành viên Ban Thường trực Quốc hội và Ban chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam".

Đầu năm 1950 cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn "Chuyển nhanh sang Tổng phản công". Toàn thể học sinh cả nam và nữ đều làm đơn tình nguyện xung phong vào bộ đội. Một đoàn cán bộ của Bộ Quốc phòng do ông Trần Ngọc Sâm đứng đầu đã về trường tổ chức nhận học sinh nhập ngũ. Trước một việc "động trời" này, Hội đồng giáo sư nhà trường đã phải cấp tốc báo cáo lên Bộ Quốc gia Giáo dục.

Hôm học sinh lên đường nhập ngũ, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên đã trực tiếp đến trường quyết định giữ lại những học sinh đang học năm thứ ba, sắp tốt nghiệp ở lại trường học tiếp. Lớp ấy chuyển sang trường Sư phạm Trung cấp Trung ương học ở trong Chợ Ngọc do nhà giáo Nguyễn Lương Ngọc làm Hiệu trưởng và bà giáo Nguyễn Thị Thục Viên làm Hiệu phó.

Khi trường Sư phạm Trung cấp Trung ương chiêu sinh thêm rồi sang Trung Quốc nhập vào Khu học xá Nam Ninh, bà Nguyễn Thị Thục Viên không theo trường mà về công tác hẳn ở Ban Thường trực Quốc hội. Năm 1951, bà là thành viên đã có mặt trong những phái đoàn ngoại giao đầu tiên do Phó Chủ tịch Quốc hội Tôn Đức Thắng dẫn đầu tham gia hoạt động hợp tác quốc tế. Quốc hội khóa II (1960-1964), bà lại được tín nhiệm trúng cử đại biểu và tiếp tục giữ trách nhiệm Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội. Đồng thời, bà còn là người sáng lập Hội LHPN Việt Nam (1950) và là Phó Chủ tịch hội từ khóa đầu tiên cho đến nhiều khóa liên tiếp sau đó cho đến khi qua đời (năm 1984).

3. Gương sáng lưu danh hậu thế

Khi nghe tôi hỏi, với một người mẹ trí thức yêu nước có nhiều đóng góp trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bà đã học được điều gì ở cụ, họa sĩ Trần Thị Thục Phi đôn hậu trả lời: “Mẹ tôi là người có nghị lực. Trong chuyện khó khăn không chịu lùi bước. Một người phụ nữ thời xưa, sức yếu, cũng chẳng khỏe gì. Quanh năm tôi cứ thấy mẹ uống hết thuốc này đến thuốc kia. Đến lúc đi kháng chiến tôi thấy mẹ cũng phấn đấu, chẳng thua kém người khác. Mẹ tôi cũng lặn lội, cũng vất vả vừa trọn vẹn nhiệm vụ người cán bộ cách mạng, vừa làm tốt nhiệm vụ người mẹ, người vợ trong gia đình.

Điều thứ hai tôi học tập ở tính cách của mẹ tôi là lương thiện, cứng cỏi, cương trực, không khuất phục. Chính đức tính ấy đã giúp cụ sống gần gũi với mọi người xung quanh, làm cho học sinh yêu mến và cách mạng tin cậy. Đó cũng là điều chúng tôi học tập ở mẹ để giữ cuộc sống của mình trong sạch, không có vì bất cứ một cái quyền lợi gì mà làm việc trái với lương tâm".

Với 4 người con của mình, hai trai, hai gái, ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, bà giáo Nguyễn Thị Thục Viên đã là một người mẹ đứng trên tuyến đầu chống giặc. Con trai thứ hai của bà là Trần Doãn Đính ở lại tham gia Tự vệ Thủ đô. Có người hỏi bà, sao không để anh ra ngoài, bà đã trả lời: "Nếu bà mẹ nào cũng muốn đưa con mình đi thì lấy ai ở lại chiến đấu?". Con trai bà đã hy sinh ở mặt trận miền Tây của Tổ quốc, sau khi đơn vị rút khỏi Thủ đô lên đường Tây Tiến.  

Ba người con còn lại của bà giáo đều trưởng thành và trở thành những cán bộ trung cao cấp: Con trai cả Trần Chí Đạo - cán bộ Quân giới; con gái lớn Trần Thị Thục Nga - nguyên Bí thư Đảng ủy kiêm Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội, Đại biểu Quốc hội khóa V (1975-1976); và con gái út Trần Thị Thục Phi - nguyên Giám đốc xưởng tranh cổ động Trung ương, chuyên viên Cục Mỹ thuật - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

Khải Đăng
.
.
.