Kỷ niệm chiến thắng 30-4: Những người thua trận đã nói gì?

Thứ Sáu, 01/05/2009, 14:30
Ngày 26/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu phải cuống cuồng xách va li chuồn khỏi Sài Gòn sang Anh quốc xin tị nạn chính trị. Từ thủ đô London của xứ sở sương mù, trong cảnh phải sống di tản nhục nhã, mỗi lần có cơ hội lên truyền hình, tên độc tài khét tiếng này vẫn không quên dùng những lời lẽ cay độc để trách cứ, buộc tội các quan thầy Mỹ mà nhiều năm hắn vẫn coi là thần tượng.

Khi tình hình chiến sự đã đến hồi nguy kịch, quân ngụy ở Xuân Lộc phải tháo chạy, Sài Gòn đã bị quân giải phóng áp sát bao vây từ nhiều hướng, phía cách mạng đã bác bỏ cái gọi là "đề nghị ngừng bắn và thương lượng trong khuôn khổ Hiệp định Paris" của Dương Văn Minh, người mới thay Trần Văn Hương làm Tổng thống ngụy ngày 26/4/1975 và đòi ông ta phải đầu hàng, đòi Mỹ phải rút hết thì Đại sứ Mỹ Martin thật sự hoang mang.

Martin và tướng Smith nhất trí là "Phải thực hiện ngay phương án 4 thôi, nếu không chúng ta chỉ là những kẻ ngu dại và sẽ chết ráo ở đây" (tức tháo chạy ra biển bằng máy bay lên thẳng, phương án được xem là làm mất thể diện người Mỹ). Và tình hình được cấp tốc báo cáo về Mỹ.

Tổng thống Hoa Kỳ lúc này là Gerald Ford, Bộ trưởng Quốc phòng Shlessinger, Ngoại trưởng Henry Kissinger cũng thống nhất cần gấp rút di tản người Mỹ ra khỏi Sài Gòn.

Giám đốc Cơ quan tình báo Hoa Kỳ lúc đó là William Colby triệu tập cuộc họp khẩn cấp các trợ thủ hàng đầu và đi đến kết luận "Cộng sản đã vào đến ngoại ô Sài Gòn chuẩn bị đánh chiếm Thủ đô. Chính phủ Dương Văn Minh đã quá lạc hậu với tình thế. Chỉ trong hôm nay (29/4/1975) hoặc ngày mai (30/4/1975) là cùng, quân Việt Cộng sẽ làm chủ Sài Gòn. Đó là điều không thể tránh khỏi". Giới am hiểu cho rằng đây là nhận định khách quan nhất, chính xác nhất của CIA có được từ 1965 tới nay ở Việt Nam.

Ngày 30/4/1975, hồi 3h20', trước khi lên máy bay di tản, trùm CIA tại Sài Gòn Timed gửi bức điện cuối cùng về Nhà Trắng thừa nhận với William Colby rằng: "Kết cục bi thảm là chúng ta đã thất bại. Hy vọng người Mỹ từ nay sẽ rút được bài học này và không bao giờ để có một Việt Nam khác nữa…".

Còn đối với Nguyễn Văn Thiệu, ngày 21/4/1975 là ngày đáng nguyền rủa nhất. Để mất Xuân Lộc, chốt chặn phòng thủ mạnh nhất phía Đông Sài Gòn, Thiệu bị quan thầy Mỹ và êkíp mới thân Mỹ được dịp ép buộc hắn phải từ chức.

Và chỉ 5 ngày sau, 26/4/1975, Thiệu lại phải cuống cuồng xách va li chuồn khỏi Sài Gòn sang Anh quốc xin tị nạn chính trị. Từ thủ đô London của xứ sở sương mù, trong cảnh phải sống di tản nhục nhã, mỗi lần có cơ hội lên truyền hình, tên độc tài khét tiếng này vẫn không quên dùng những lời lẽ cay độc để trách cứ, buộc tội các quan thầy Mỹ mà nhiều năm hắn vẫn coi là thần tượng.

Thiệu nói: "…Người Mỹ đã bội ước. Lão Henry (chỉ Ngoại trưởng Mỹ Kissinger thời đó) dám lừa tôi. Lão dụ tôi đặt bút ký vào cái hiệp định quái quỷ ấy (Hiệp định Paris ngày 27/1/1973). Lão bảo tôi, đó chỉ là giải pháp tình thế, nước Mỹ sẽ không bao giờ bỏ rơi các ông, luôn bảo vệ các ông".

Lão còn nói thêm "Người Mỹ rút đi nhưng cầu hàng không viện trợ vẫn còn, thậm chí sẽ còn hào phóng hơn trước" và rằng "chỉ cần các ông (ngụy) yên tâm quyết chiến đấu chống Việt Cộng đến cùng…".

Nhưng rốt cuộc tất cả chỉ là trò lừa bịp, dụ dỗ. Giá mà tôi biết trước có ngày thầy trò lão (chỉ Tổng thống Mỹ Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger) tuyên bố tỉnh queo trước cánh báo chí (19/4/1975 ở Washington) rằng: "Vấn đề của Việt Nam phải do người Việt Nam quyết định. Nước Mỹ sẽ không can thiệp".

Và lão Martin (chỉ Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn) sau đó 2 hôm còn lên giọng bảo tôi: "Các ông không còn sự lựa chọn nào khác nữa đâu. Từ chức đi thôi. Chịu thất thủ thôi. Sớm muộn thì Sài Gòn cũng rơi vào tay cộng sản…".

Dối trá cả. Lừa bịp hết. Độc chiếm miền Nam Việt Nam biến nơi đây thành một phần lãnh thổ của nước Mỹ vẫn luôn là tham vọng cháy bỏng của Washington. Họ chẳng bao giờ vì chúng tôi. Thật ra chúng tôi (ngụy) chỉ là con tốt trên bàn cờ chính trị của họ (Mỹ). Chớ nên đặt lòng tin vào người Mỹ. Họ đã nuốt lời hứa mà quên mất rằng một khi chúng tôi đã mất tất cả thì nước Mỹ cũng sẽ mất tất cả…".

Nhưng người Mỹ vốn nổi tiếng thế giới về tính thực dụng, lọc lõi và cũng không phải là tay vừa, biết ăn miếng trả miếng. Đáp lại những lời cáo buộc đầy oán hận của Nguyễn Văn Thiệu là sự lên tiếng phủ nhận thẳng thừng của Tổng thống Mỹ Gerald Ford: "Chúng tôi chẳng tạo ra một áp lực nào cả với ông Thiệu. Từ chức hay không từ chức là quyết định của chính ông ta. Ông Thiệu lúc đó (ngày 21/4/1975) có bị mất trí đâu?".

Còn James Kean - một trong những cố vấn Mỹ cuối cùng rút chạy bằng máy bay lên thẳng đậu trên sân thượng tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn ngày 30/4/1975 đã đầy vẻ tức tối khi nhắc đến Nguyễn Văn Thiệu: "… Nước Mỹ đã dày công gây dựng chính quyền Sài Gòn và cam kết luôn sát cánh bên họ. Nhưng từ bấy đến nay (chỉ chính quyền ngụy từ thời Ngô Đình Diệm 1954), nước Mỹ đã không tiếc tiền tiếc của nhưng bọn họ (ngụy) đã quá ư tham lam. Hàng tỷ đô la viện trợ rốt cuộc đã rơi vào túi lũ tướng tá Sài Gòn (chỉ quân ngụy). Họ khoái làm giàu cho bản thân hơn là đánh chác. Họ chỉ là những con buôn, những kẻ đầu cơ trục lợi chứ không phải là những chính trị gia, càng không phải là những người lính xả thân vì đất nước như điều mà người Mỹ chúng tôi mong muốn. Chúng tôi đã dốc công dốc của xây dựng và trao cho ông Thiệu một đội quân đông thứ tư trên thế giới nhưng cuối cùng đã chịu đại bại trước Việt Cộng. Thật là nhục nhã và đáng xấu hổ…"

Thế Trường (theo các báo Mỹ và nước ngoài)
.
.
.