Huyền thoại về nghị lực của một người phụ nữ

Thứ Ba, 13/09/2005, 06:21

Chị đã từng 10 lần nung dao đỏ để chặt đứt những ngón tay của mình. Bệnh tật và bom đạn cướp mất 90% sức khoẻ, nhưng nghị lực và niềm tin đã giúp chị vượt lên hoàn cảnh. Đứng trước căn nhà bạc tỉ ở miền quê nghèo, tôi vẫn không tin đây là câu chuyện có thật.

Người ta bảo: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”, nhưng với chị Trần Thị Hằng, ở xã Hoàng Diệu, Tp. Thái Bình, thì khó cả tứ chi. Đôi bàn tay nhỏ nhắn, trắng hồng ngày nào của chị giờ chỉ còn một đốt ngón cái. Đôi bàn chân co rút, ngắn tũn, đi lại khó khăn, cứ lật đà lật đật. Gần 30 năm vật vã dưới tận cùng bể khổ, giờ chị mới được ngẩng mặt với đời. Ngồi trong căn nhà cũ nát, nhìn ngôi nhà bạc tỉ đang xây, chị nhớ về một thời lầm lũi trong tủi nhục để sống, những giọt nước mắt cứ lăn tràn trên gò má.

Phận gái nổi chìm mười hai bến nước

Chị Trần Thị Hằng sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Bố chị từng là thầy giáo, rồi Chủ tịch xã Hoàng Diệu, bị địch bắn chết trong một trận càn, ngay trước mắt Hằng. Bé Hằng xưa kia học rất giỏi. Hồi đi thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã ra đề thi làm thơ ứng khẩu tự nhiên, bé Hằng đột nhiên nhớ đến cha rồi làm một bài thơ rất cảm động. Xin chép lại mấy câu: “...Cha tôi không về quê hương dạy được. Nhưng cái chết đã dậy lòng yêu nước. Cho cả những người không học lớp cha tôi. Bài học máu xương người đã viết xong rồi. Buổi kể chuyện ngoài giờ chiều thứ bảy...”. Nhà thơ Tố Hữu khen hay và cho giải nhì.

Do học giỏi nên Hằng được cử đi học Đại học Tài chính - Kế toán. Giữa mùa thu năm 1967, ra trường, Hằng cùng bạn bè khoác balô, vượt Trường Sơn vào tận Sài Gòn, Đồng Nai làm công tác thanh vận cho đồng bào vùng giải phóng. Tháng 5/1968, do yêu cầu công tác, chị trở ra miền Bắc làm ở Ty Tài chính Hà Tây. Cuối năm 1972, khi đang quét dọn kho tàng thì máy bay Mỹ lao tới trút bom. Một mảnh bom cắt mất mảng da đầu, một mảnh găm vào mông và một mảnh xuyên thủng bụng. Chị bị cắt bỏ hơn 1 mét ruột và nằm bất tỉnh trong bệnh viện suốt nửa năm trời. Do sức khỏe mỗi ngày thêm sa sút nên cơ quan giải quyết cho chị về chế độ “một cục”.

Hồi về quê chồng ở Bắc Ninh, chị mang thai đứa con đầu, nhưng do sức khỏe yếu nên bị lên cơn sản giật. Lúc chị hấp hối thì có một người đàn bà giàu sang tên là Tuyết, người Đông Du, bế chị lên chiếc xe commăngca đưa đến Bệnh viện Suối Hoa mổ cấp cứu. Không cứu được đứa bé, nhưng chị sống. Mấy chục năm qua, chị cố công dò hỏi nhưng không biết người đàn bà tên Tuyết đó ở đâu để trả ơn cứu mạng.

Năm 1975, chị sinh Tú Anh trong tủi hờn nước mắt, bởi chồng chị đã bỏ đi theo người đàn bà khác. Gia đình chồng cũng hắt hủi, ghẻ lạnh chị. Không có tiền, không ai chăm sóc, đẻ xong, chị phải lần đến từng giường của những người bệnh khác để xin ăn từng mẩu bánh mì, từng miếng cơm thừa để có sữa cho con bú.

Chị lặng lẽ bế đứa con trai còn đỏ hỏn vừa lang thang xin ăn, vừa tìm đường về quê mẹ. Người mẹ bệnh tật, nằm co quắp trong ngôi nhà lạnh lẽo nhìn thấy đứa con tàn tạ mà không nói nên lời, hai mẹ con cứ ôm nhau khóc lặng đi. Tài sản mẹ để lại cho chị gồm mảnh vườn nhỏ ngập nước cùng cái ao rộng 3 sào, sâu như thùng đấu. Đứng bên bờ ao mênh mông nước mà chị ngẫm nghĩ mông lung: Bắt đầu sống thế nào đây?

Chị chặt hạ những cây chuối hột trong vườn, kết lại thành bè, chốt xung quanh bằng những cọc tre rồi dựng lên túp lều lợp bằng rơm rạ. Mỗi khi mưa lớn, nước trên đồng tràn vào ao, ngập khắp vườn, chiếc bè chuối của mẹ con chị lại nổi lên, dập dềnh trên mặt ao. Đã có không ít lần giông bão, gió thổi bay cả mái rạ, đánh tan bè chuối, mẹ con chị ướt lóp ngóp giữa cơn xoay vần của tạo hóa.

Nung dao đỏ, tự chặt tay để đứng vững giữa đời

Để tạo lập cuộc sống, chị đắp đất tôn cao bờ ao, rồi mua cá giống về thả. Chị dầm mình hết ngày này qua ngày khác móc bùn đắp ấp trúc thành rệ xung quanh ao để trồng khoai nước, thả rau muống. Chị đóng một cái cũi bằng tre, nhốt Tú Anh để an tâm làm việc. Tú Anh còi cọc, đói ăn, song rất hiếm khi khóc, chơi chán lại lăn ra ngủ.--PageBreak--

Đôi bàn tay người đàn bà bao nhiêu năm chọc xuống bùn, đôi bàn chân ngày ngày ngập trong buốt giá đã không chịu nổi nên viêm nhiễm, lở loét. Không có tiền mua thuốc, chị tự nghĩ ra cách điều trị khủng khiếp mà kể ra đây chắc chẳng ai có thể tưởng tượng nổi: Nung đỏ dao, kê những ngón tay lở loét lên viên gạch rồi nghiến răng chặt. Khi ngón tay lở loét đã đứt lìa, chị lấy vôi đắp vào. Vết thương vừa ngậm miệng, chị lại nhào xuống ao. Cứ đến mùa đông là những cơn co giật lại ập đến, những ngón tay lại lở loét, đau đớn, và chị lại "xử sự" với nó bằng cách nung đỏ dao chặt đi. Lần lượt 10 ngón tay đã mất bằng kiểu "điều trị" khủng khiếp đó. Bàn tay trái chị chặt ngón tay phải, bàn tay phải chị chặt ngón tay trái. Điều đau đớn hơn cả việc cầm dao tự chặt vào tay mình, đó là bị dân làng nghĩ chị mắc bệnh “hủi”. Bản thân chị lúc đó cũng nghĩ mình bị “hủi”. Người ta không dám đi qua cái bờ ao nhà chị nữa. Rau, cá chị bán cũng chẳng ai mua. Thậm chí một số kẻ còn đòi chôn sống cả hai mẹ con chị để tiêu diệt mầm bệnh.

Nghĩ đã hết đường sống nên chị viết một bức thư tuyệt mệnh cho mẹ già: “Con chết rồi, mẹ hãy gửi Tú Anh vào trại trẻ mồ côi”. Chị trẫm mình xuống dòng Trà Lý mênh mông. Ông lão thuyền chài nhào xuống dòng nước xiết vớt chị lên. Ông bảo: “Sống thì khó, chết thì dễ. Chết vô nghĩa lắm...”, rồi ông chèo thuyền bỏ đi. Lúc đó, chị nghĩ đến con, chợt bừng tỉnh.

Chị lếch thếch lội qua cánh đồng trong đêm trăng vằng vặc sáng. Vừa về đến làng dân quân đã trói nghiến chị lại rồi khiêng đến trại phong Văn Môn. Thế nhưng, bác sĩ khẳng định trong máu chị không có vi khuẩn Hansen. Chị bị lở loét là do sức yếu lại làm việc quá nặng nên bị nhiễm trùng, viêm cơ địa.

Tuy vậy, con mắt người làng nhìn chị như “con hủi” vẫn không hề thay đổi. Để tìm đất sống, cứ 3 giờ sáng chị thức dậy, cho Tú Anh vào một bên quang gánh, bên kia là mớ rau, nải chuối, rổ cà rồi quảy sang tận Nam Định bán. Đêm đêm, hai mẹ con nằm chui rúc nơi đầu đường xó chợ. Mùa đông hai mẹ con chui vào bao tải cho ấm. Kiếm được đồng nào chị đều cất đi, đến bữa thì vào các quán ăn để xin chút cơm thừa canh cặn. Thậm chí, chị lượm cả những củ su hào hư thối ở đống rác, gọt lấy phần còn ăn được để dùng. Vì mấy năm trời ăn đường, ngủ chợ nên sức khỏe chị suy kiệt nhanh chóng. Một buổi sáng thức dậy, chị thấy mình không cử động được nữa, miệng ú ớ chẳng nên lời.

Lúc ấy, Tú Anh đã lên 6 tuổi. Ngoài giờ đi học, Tú Anh lại mua lạc về rang rồi đêm xuống đem ra thị xã bán. Gần nửa đêm mới về nấu cháo cho mẹ ăn. Trận ốm liệt giường đó kéo dài suốt hơn nghìn ngày, cơ thể chị chỉ còn chưa đầy 20 kg, chị đuối sức nên hay bị lên cơn co giật. Tú Anh cắp 2 con gà mái đẻ đi bán lấy tiền thuê xe chở mẹ đi viện. Các y tá, bác sĩ nhìn thấy người đàn bà teo tóp, chân tay què quặt, hai mắt nhắm nghiền lại đang co giật nên bảo: “Đã sắp chết rồi còn mang đến bệnh viện làm gì”. Thế là họ đưa chị vào phòng cách ly rồi mang vôi bột đến rắc. Thế nhưng, đến nửa đêm mà chị vẫn chưa chết. Ông giám đốc bệnh viện đến trực, cầm đèn soi vào mặt và nhận ra chị. Ông yêu cầu bác sĩ, y tá cứu chữa, nhưng họ cứ đùn đẩy nhau vì sợ lây “hủi”. Vị bác sĩ già phải trực tiếp tiêm vào ống chân, truyền máu và mãi 7 ngày sau chị mới hồi tỉnh.

Tuy nhiên, suốt 3 năm trời sau cơn thập tử nhất sinh, chị trở nên... không bình thường. Đôi lúc tỉnh táo, chị tập co duỗi cánh tay, đôi chân, Tú Anh dìu mẹ tập đi. Khi ấy, đôi bàn chân chị đã co rút, các ngón chân như không có xương, thụt hẳn vào trong một cục thịt tròn lẳn. Ba năm trời nằm liệt giường, ba năm trời mất trí, chị sống nhờ bàn tay chăm sóc của đứa con trai chưa kịp lớn mà đã biết khôn, biết đau nỗi đau của mẹ.

Đúng lúc mẹ chị bị ngã, chấn thương cột sống, nằm liệt thì chị đột nhiên tỉnh hẳn. Dù đôi bàn tay không còn ngón, dù hai bàn chân đã tật nguyền, nhưng chị vẫn cảm thấy cuộc đời đang rộng mở.

Chị bán cá dưới ao, bán đàn gà lấy vốn xây chuồng trại trên mảnh vườn hoang để nuôi lợn. Từ một chuồng nuôi tạm bợ, chị đã dựng lên một hệ thống liên hoàn gồm 10 chuồng. Mỗi năm chị xuất chuồng đến cả chục tấn lợn. Có lúc, đàn lợn của chị lên đến 200 con. Cả ngày, hai mẹ con miệt mài ngoài đồng, rồi dầm mình dưới ao trồng rau, cắt rau. Chị đấu thầu những mảnh ruộng thụt lầy để lấy đất trồng rau, tranh thủ từng mảnh ruộng do người dân bỏ hoang để cày cuốc, trồng cấy.

Đêm xuống, Tú Anh lại buộc cùi tay mẹ vào xe thồ rồi hai mẹ con đẩy xe ra bãi sông xã Đông Hòa để chở đất về lấp ao. Mười mấy năm ròng rã như thế chị đã lấp được mảnh vườn rộng đến 300 m2. Trên mảnh vườn ấy đã mọc lên ngôi nhà ngói nhỏ, làm nơi trú nắng trú mưa của mẹ con chị và người mẹ già ốm yếu, hiện giờ đã 100 tuổi.--PageBreak--

Việc nuôi cả trăm con lợn, cấy hơn mẫu lúa, chăm sóc ao cá, dường như vẫn nhàn nhã đối với người đàn bà đã từng phải chịu bao năm “thử lửa” nên chị nghĩ ra chuyện đóng gạch. Bà con xã Hoàng Diệu bảo: Từ tảng sáng đến nửa đêm chị làm việc quần quật bên đống đất. Đôi tay cụt ngón chai sạn vục vào đất nhào nặn, lóc từng tảng nhồi vào khuôn, đập, đóng. Gạch ra khuôn, phơi khô, chị bán luôn cho mấy chủ lò ở Kiến Xương. Tổng cộng có 13 năm trời người đàn bà tật nguyền này liên tục nhào đất, nặn gạch để bán. Chị cũng không nhớ là đã bán được bao nhiêu vạn gạch. Hễ cứ bán được mẻ gạch nào chị lại mua vàng bỏ vào hòm. Sau này, khi mở hòm ra chị tính tổng cộng được 25 cây vàng.

Niềm vui lớn nhất đời chị, ấy là ngày Tú Anh đỗ Đại học Kinh tế quốc dân. Nhưng sóng gió tưởng đã qua, bỗng dưng lại ập tới. Năm thứ 2 đại học, Tú Anh bị bệnh thiếu ôxy não, sinh độc tố trong máu. Ròng rã năm trời, bao nhiêu tài sản tích cóp đã tan theo bước chân của hai mẹ con từ Bắc vào Nam. Ngày Tú Anh khỏi bệnh cũng là ngày số nợ của chị lên đến 73 triệu đồng. Chị lại trở về với chiếc máng lợn, khuôn gạch và cái ao sâu.

Lam lũ, cặm cụi làm việc quên cả ngày đêm, chị nhanh chóng trả được nợ. Rồi chị vét ao, xây tường bao và thả ba ba. Thế rồi, một buổi sáng đầu năm 1997, đàn ba ba trị giá 200 triệu đồng chết nổi lều phều. Đàn lợn 65 con cũng sùi bọt mép. Chị ngửi thấy mùi thuốc trừ sâu sặc lên từ máng lợn. Cho đến bây giờ vẫn không biết kẻ hại chị là ai. Số tiền đầu tư mất trắng, chị lại trở thành con nợ. Người cho chị vay 43 triệu đã “niêm phong” ngôi nhà và mẹ con chị lại trở thành kẻ không nhà.

Mẹ con chị Hằng dắt díu nhau ra Quảng Ninh làm nghề buôn thúng bán mẹt. Tú Anh vừa đi lấy hàng giúp mẹ, vừa tranh thủ học lớp bồi dưỡng giám đốc. Do lanh lợi, hoạt bát nên chẳng mấy chốc chị đã kiếm đủ được số tiền trả nợ, và Tú Anh cũng hoàn thành khóa học. Chị chuộc lại được nhà và một lần nữa bắt đầu từ đôi bàn tay trắng.  

Tỉ phú nơi xóm ngèo

Dường như ông trời đã mủi lòng trước người đàn bà có sức mạnh kỳ lạ này nên từ bấy đến nay đã không nỡ đọa đày thêm nữa. Chị Hằng đã giàu lên từ cái ao và đàn lợn. Tú Anh cũng đã lấy vợ, sinh con và thành lập công ty TNHH chuyên về diệt mối. Một thời, hai vợ chồng làm ăn khó khăn, chị Hằng đã động viên con dâu đi học và cô con dâu ấy đã thi đỗ Đại học Sư phạm Thái Nguyên, để bây giờ trở thành cô giáo trường làng.

Ngôi biệt thự của người đàn bà tật nguyền đang hoàn thiện.

Ngôi biệt thự nằm ở nơi mà xưa kia là mặt ao. Tú Anh khuyên mẹ nên xây nhà trên miếng đất mua được ở mặt đường 10 để hưởng lạc, song chị không nghe. Chị bảo, sống được là nhờ đàn lợn và cái ao, nên không xa nó được. Để hoàn thiện ngôi nhà này cũng phải tốn gần tỉ bạc. Không một ai có thể tin nổi đó là nhà của người đàn bà bệnh tật đã từng có cuộc sống tủi cực đến tột cùng. Mới đây, mấy đứa trẻ lang thang, mồ côi mà chị nuôi dưỡng, bao bọc năm xưa, giờ thành đạt đã gửi cho chị hơn trăm triệu bạc để mẹ Hằng xây nhà. Tuy nhiên, chị không cần tiêu đến khoản tiền đó. Khi nào hoàn thành ngôi nhà, chị sẽ đem những đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ về nuôi và luyện chúng thành tài bằng cách truyền cho chúng nghị lực và ý chí sống.

Giờ đây, dù đã khá giả, nhưng người đàn bà này vẫn tự tay băm bèo, chăm lợn, thả cá trê lai, nuôi ba ba. Sống khổ quen rồi, nên đến bây giờ chị cũng chỉ ăn cá vụn, tép vụn, thịt thà đối với chị cứ khó ăn thế nào ấy. Hôm khai trương công ty của Tú Anh, con dâu sắm cho mẹ bộ vest mới, nhưng mặc thử cứ có cảm giác lạc lõng nên chị lại mặc chiếc áo cũ kỹ, nhăn nhúm, đứt mất 2 cái cúc.

Mới đây, Nhà nước có chính sách trợ cấp ưu đãi cho con liệt sĩ nên chị Hằng được đưa đi khám sức khỏe. Ông bác sĩ ở Hội đồng giám định y khoa tỉnh Thái Bình nói chị bị mất 90% sức khỏe, nhưng trong giấy khám bệnh chỉ ghi 81%, bởi đó đã là giới hạn cao nhất rồi. Vậy là mỗi tháng chị được Nhà nước trợ cấp 45.000 đồng.

Trước khi rời xóm nghèo có ngôi biệt thự đang xây, chị nói với tôi rằng: “Khi nào chị Hằng viết xong cuốn hồi ký chú đọc giúp chị trước khi in nhé. Cả tập thơ nữa”. Con người chị Hằng thật kỳ lạ!

Phạm Ngọc Dương
.
.
.