Cây ngô đồng trên núi
Người làng Sơn Đồng làm tượng đẹp, làm hoành phi, câu đối sáng sủa cao sang, nức danh từ Bắc vào
Ông Nguyễn Nghiêm Đạt là bảo vệ trường tiểu học, là thủ văn, là thầy đồ dạy chữ Hán Nôm cho con trẻ và kiêm luôn người viết sớ, điếu văn ở làng Sơn Đồng. Công việc là thế nên ông là người chứng kiến, ghi chép và kể lại thấm thía những câu chuyện về làng, nơi có nghề khắc gỗ, tạc tượng, làm hoành phi, câu đối truyền thống đã tồn tại từ rất lâu đời.
Truyền thuyết Sơn Đồng
"Cắt nghĩa từ Sơn Đồng không khó, tích hay chuyện xưa về Sơn Đồng thì có cả vạn"... Người thủ văn của làng khẳng định.
Sơn Đồng là cây ngô đồng mọc trên núi cao (dựa vào hình tượng người anh hùng Đào Trực), Sơn Đồng vạn tuế là tiếng nói của làng lớn như tiếng nói của vua (dựa trên sức mạnh đoàn kết của làng)... Nếu tích là những câu chuyện được ghi chép, kể lại sau những lắng đọng về thời gian thì ở làng Sơn Đồng nhiều lắm.
Ông thủ văn của làng bảo: "Vì tiền, vì bữa thịt chó cũng có thể trở thành tích, thành truyện lịch sử của làng nhưng ý nghĩa của nó sẽ bị làng quên ngay nếu cái tích (truyện) ấy chỉ nhắm vào cái ăn uống, tiêu pha mà không hướng đến cái cao hơn là lễ, là nghĩa ở đời". Và những tích, truyện được ghi lại ở Sơn Đồng là một minh chứng.
Ông Đạt kể rằng, năm 981 thời vua Lê Đại Hành ở đất Phong Châu có một nhà tích thiện, chồng tên là Đào Vượng, vợ tên Nguyễn Thị Tính. Vợ chồng này giàu có nhưng đến 40 tuổi mà vẫn chưa có con...
Sau nhiều năm làm từ thiện, họ may mắn được "ông trời" thương xót nên đã cho 1 con trai. Vợ chồng này đặt tên con là Đào Trực. Năm 7 tuổi, Đào Trực biết âm nhạc, 13 tuổi đã thông thạo Tứ Thư, Ngũ Kinh; Lục Thao, Tam Lược... Nhưng đến năm Đào Trực 15 tuổi, trong gia đình đã xảy ra một biến cố, đó là cả bố và mẹ đều mất trong 1 đêm. Đào Trực ở nhà chịu tang bố mẹ 3 năm, trong lúc đó đã miệt mài kinh sử.
Năm 18 tuổi, ông không chọn con đường thi cử để làm quan như đại đa số người thời bấy giờ mà chọn cách đi "du quan thổ địa". Ông đến Sơn Đồng Trang (đất Sơn Đồng ngày nay) thấy một mảnh đất đẹp, có rừng, có núi và đã có lác đác dân cư sinh sống. Dân ở đây lại rất thông minh nên ông đã ở lại, chọn đây là nơi sinh sống. Ông dựng nhà dạy học, dạy chữ và lễ nghĩa. Sau 3 năm, dân ở đây đã biết kỷ cương, phép tắc.
Thời đó có giặc Tống kéo vào, vua Lê Đại Hành kêu gọi cả nước đứng lên đánh giặc. Ông Đào Trực thấy vậy mới kêu gọi dân làng xã cầm giáo mác ra trận nên ông được phong chức Điện Tiền Đại Tướng Quân và được dẫn quân đi đánh giặc. Một mình Đào Trực đã có công bắt 3 tướng của nhà Tống và góp phần cùng quân dân nước Việt đẩy quân Tống về nước...
Non sông yên ả, ca khúc khải hoàn, ông được mời về kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) và phong chức Tiền Chiều Thái Phó Lê Tướng Công (ở tuổi 21). Nhưng ông từ chối và chỉ xin vua cho về Sơn Đồng dạy học, ông muốn đào tạo nhân tài cho đất nước ở mảnh đất có nhiều người thông minh như Sơn Đồng. Vua đồng ý, ban cho ông 5 hốt vàng (để giúp dân phát triển kinh tế, đào ao, xây lớp học, xây chùa...) và thực ấp Quốc Oai.
Nhưng rồi thế thái nhân tình, họa phúc khôn lường. Truyền thuyết kể rằng, một hôm, ông nhận tam ban của nhà vua (1 dải lụa, 1 thanh kiếm và 1 gói thuốc độc)... Ông chết. Trong làng người dân lập ban thờ, dân góp tượng để thờ ông trong chùa Diên Hựu, đồng thời người dân lại đẽo, gọt tượng khác để thờ trong nhà... Họ làm lại nghề tạc tượng, ông được coi như "Công Sư Phục Nghề".
Những cây ngô đồng mọc sau...
Người làng Sơn Đồng làm ra những sản phẩm là hoành phi, câu đối, ban thờ, tượng phật... Thời kinh tế thị trường, chùa chiền mọc ở nhiều nơi, công đức của người cho chùa cũng dày hơn nên làng nghề phát triển và nhiều người giàu có. Nhưng hễ giàu mà quên lúc nghèo khó thì cũng như cây mất gốc, cũng như có nghề mà không có "nghệ".
Bởi lẽ đó nên những dòng sử của ông thủ văn Đạt đã chép về những người như ông Nguyễn Đức Dậu - người có công phục nghề, anh Nguyễn Văn Hồng (nghệ nhân được nhân dân công nhận) - người say sưa mài ra những pho tượng, rất nghèo nhưng thật thà, chân chất càng có giá trị.
![]() |
|
Có nghĩa là Nhất Vị Đại Vương Phả Lục - Tiền Lê Đại Hành Vương Chiều Công Thần. |
Cụ Dậu sinh ra trong thời loạn lạc (1896) cũng là lúc mà làng nghề gặp khó khăn nhiều nhất. Người làng chuyển sang nhiều nghề như ghế mây, sơn mài, dệt vải, họ học hỏi nghề của những nơi khác để sống qua ngày đoạn tháng. Chỉ có cụ Dậu là nhẫn nhịn và nhận theo chú ruột học nghề, rồi làm nghề... Ông làm nghề giỏi đến người Pháp cũng phải công nhận, được tặng bằng "Cửu Phẩm Văn Giai", được nhận "Đồng tiền vàng" cho người thợ giỏi ở "Hội thi đấu xảo Hà Đông".
Thế nhưng nghề ông cha để lại mình ông giỏi thì chưa thỏa, ông mất đi thì ai là người kế nghiệp? Trăn trở về thế hệ sau như vậy, lại lo làng mất nghề, ông đã mở lớp dạy tạc tượng ở tuổi 62, sau đó năm 88 tuổi ông lại mở 1 lớp nữa...
Nhờ ông nhiều người học được nghề và làm nghề. Ông được người ta tôn làm ông tổ vì có công phục nghề. Sau khi phục nghề, hiến hết miếng nghề cho con cháu rồi ông mất ở tuổi 92. Ngày nay học trò của ông ở khắp làng có người ở tuổi 60, 70, 80... cũng có người đã về trời.
Người ở làng chỉ cho tôi đến nhà anh Hồng, học trò của cụ Dậu và hiện tại là người tạc tượng đẹp ở Sơn Đồng.
Anh Hồng sinh năm 1965, là học trò xuất sắc nhất lớp học thứ 2 của thầy Dậu. Người làng gọt, đẽo tượng bằng máy hết 1 tuần, anh gọt đẽo tượng bằng tay hết 1 tháng, tượng của người ta bán 300 nghìn đồng, tượng của anh bán 1 triệu đồng... Thứ hàng làm dễ dãi thì dễ bán nhanh thu vốn, nhanh giàu...
Còn anh Hồng thì làm ra cái đặc biệt, làm tỉ mẩn nên anh có vẻ nghèo và lấy vợ muộn. Năm 43, tuổi anh mới có đứa con đầu lòng. Đến nhà anh Hồng xem những pho tượng anh làm bằng dao, dĩa, mỗi pho tượng đều được gọt đẽo tỉ mỉ. Tôi không biết những pho tượng đó ai đặt, nó sẽ được thờ tự ở ngôi chùa nào, hô thần nhập tượng ở đâu nhưng khi ở nhà anh, được làm từ bàn tay anh nó đã có thần, có hồn cốt rất riêng.
***
Nói về những cây ngô đồng mọc sau, có lẽ sẽ là thiếu sót nếu quên đi ông Đạt, ông lão chép sử của làng, người đã thôi miên tôi bằng vốn hiểu biết và thay đổi ý nghĩ ban đầu của tôi về Sơn Đồng. Ngoài một thủ văn, một ông lão trông trường tiểu học, thì ông còn là thầy đồ dạy học trò chữ Hán Nôm miễn phí.
Ông dạy để làm sáng tiếng Việt, để những thế hệ làm nghề sau ở Sơn Đồng hiểu chữ thánh hiền. Rồi sau này chúng sẽ làm ra những hoành phi, câu đối, sẽ đục đẽo những pho tượng phật, sẽ trang trí trên đó những "long ly quy phượng", những con giống... Chúng phải hiểu cội nguồn sâu xa của những sản phẩm đó. Hiểu biết rồi mới làm thì nâng cao tay nghề, nâng cao giá trị của sản phẩm.
Ông Đạt lúc nào cũng đau đáu một điều rằng, những người dân quê ông nếu biết vượt qua gian khó, thành tâm yêu quý say mê với nghề truyền thống, tạo tác nhiều sản phẩm tốt đẹp cho đời, hẳn sẽ được người đời yêu quý và mến mộ như những cây ngô đồng trên núi cao vậy

