Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam (7/5/1955 – 7/5/2015):

Ba con tàu đi vào lịch sử

Chủ Nhật, 03/05/2015, 13:00
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng nhiều kỷ niệm đẹp, đậm nét hào hùng vẫn sống mãi trong tâm thức của những cựu binh trên các chuyến tàu không số vận chuyển vũ khí từ miền Bắc chi viện chiến trường miền Nam. Giữa vòng vây, những chiến sỹ Hải quân kiên cường đánh trả, sẵn sàng phá hủy tàu, dũng cảm hy sinh, không để sa vào tay địch.
Tàu nằm lại ở Quảng Ngãi

Ông Hồ Đắc Thạnh là người con Phú Yên tập kết ra Bắc năm 1955 rồi trở thành lính Hải quân. Sau khi làm thuyền phó hai tàu 54 và 56 Đoàn 759 – tiền thân của Lữ đoàn Hải quân 125 vận chuyển vũ khí vào Cà Mau, Bến Tre, cuối năm 1963 ông Thạnh làm thuyền trưởng, chỉ huy 10 chuyến tàu đưa hơn 800 tấn vũ khí vào Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Phú Yên, Quảng Ngãi.

Ông tâm sự “Trên mỗi tàu có ít nhất nửa tấn thuốc nổ để phá hủy khi cần thiết. Sau sự kiện tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô, Đoàn 759 chọn phương án vào bãi ngang thả vũ khí”. Theo phương án đó, tàu 41 chở 40 tấn vũ khí vào Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi đêm 26/1/1966. Những kiện vũ khí cuối cùng vừa thả xuống biển thì sóng lớn đánh gãy chân vịt con tàu.

Ông Thạnh kể: “Lúc đó hai tàu chiến của địch có hỏa lực mạnh đã bao vây, tàu mình chỉ có pháo 12,7 ly. Trước tình huống đó, tôi lấy quốc kỳ quấn vào cổ, chỉ đạo anh em bơi trước vào bờ, máy trưởng mở hết giới hạn kỹ thuật chân vịt, cho tàu 41 lao về phía hai tàu chiến của địch sau khi kích nổ bộc phá dưới hầm tàu. Khi tôi và máy trưởng bơi chưa tới bờ thì tiếng nổ dội vang, phá hủy tàu 41. Từ phía biển, địch giội pháo vào bờ, khiến thuyền phó Dương Văn Lộc, thủy thủ Trần Văn Nhợ hy sinh. 19 người còn lại ngược đường rừng ra Bắc.

7 năm sau sự kiện đó, ngày 11/1/1973, tập thể tàu 41 được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND). Kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 – 23/10/2011), thuyền trưởng tàu 41 năm xưa – Trung tá Hồ Đắc Thạnh vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh - người đã chỉ huy phá hủy tàu 41 ở biển Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi đêm 27/1/1966.

Phá hủy tàu 143 ở vịnh Vũng Rô

Nói đến bến Vũng Rô và huyền thoại những con tàu không số, Trung tá Hồ Đắc Thạnh kể lại: “Ngày 1/2/1965, tức mùng 8 Tết Ất Tỵ, tàu 143 do ông Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng vận chuyển 63 tấn vũ khí vào bến Lộ Diêu, tỉnh Bình Định. Vừa xuất bến thì địch ráo riết tuần tra trên biển, nên phải dừng lại ở đảo Hải Nam (Trung Quốc). Đến ngày 10/2/1965 tiếp tục hải trình nhưng bến Lộ Diêu mất an toàn, nên Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo tàu 143 chuyển hướng vào Vũng Rô.

Chuyến hàng ngoài kế hoạch, nhưng bộ đội, dân công nỗ lực bốc dỡ hết vũ khí trước 3h30 sáng 16/2/1965. Tời kéo neo bị hỏng phải sửa chữa đến 5h sáng buộc tàu 143 nằm lại Bãi Chùa. Dù đã ngụy trang cẩn trọng, nhưng trực thăng của địch tải thương từ Bình Định vào phát hiện mỏm núi nhô ra Bãi Chùa khác thường nên báo về Sở chỉ huy Quân đoàn 2 ở Nha Trang.

Một giờ sau máy bay L19 của địch đến Vũng Rô chụp ảnh và nhận ra nét khác biệt với tấm không ảnh trước đó. 13h, 1 máy bay trinh sát và 2 trực thăng giội pháo mù, bom xăng khiến lá ngụy trang bị cháy, lộ diện tàu 143. Từ Bãi Lau, hai khẩu pháo 12,7 ly của K60 phối hợp thủy thủ tàu 143 nã đạn đánh trả. Phương án phá hủy tàu 143 được triển khai, nhưng thân tàu chao nghiêng do trúng bom, không thể chui vào hầm kích nổ nửa tấn TNT.

Trong lúc chờ K60 “điều” bộc phá, kíp nổ, dây cháy chậm để đánh trên boong tàu thì địch tăng cường máy bay, tàu chiến và hai tiểu đoàn bộ binh mưu toan tóm gọn tàu 143. Bộ đội, du kích bến Vũng Rô và Hải quân tàu 143 kiên cường chống trả các cuộc tấn công của địch.

Với quyết tâm cao nhất, hơn nửa tấn thuốc nổ đã được trinh sát K60 đưa ra phá hủy tàu 143 trong đêm 17/2/1965, rồi thoát khỏi vòng vây của địch. Những ngày sau đó, chiến sự ở Vũng Rô và vùng ven diễn ra ác liệt, địch tăng cường đánh phá, phong tỏa, nên bến Vũng Rô khép lại nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc.

Tàu 143 đến Vũng Rô - ảnh do không quân Mỹ chụp.

Tàu 235 cảm tử ở Ninh Vân

47 năm qua bên chân núi Bà Nam, xã Ninh Vân, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa luôn thơm khói hương tưởng nhớ 14 thủy thủ tàu 235 hy sinh anh dũng. Những nhân chứng lịch sử kể lại, trưa 27/2/1968, tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy, rời Hải Phòng vận chuyển 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo với những luồng hẹp và bãi đá ngầm. Sau hải trình vất vả, đêm 29/2/1968, tàu 235 vào bến Hòn Hèo nhưng vấp phải 7 tàu tuần tra của địch.

Thuyền trưởng động viên anh em bình tĩnh, sẵn sàng chiến đấu và chỉ huy tàu vào biển Ninh Phước bên chân núi Hòn Hèo rạng sáng 1/3/1968, thả những kiện vũ khí bọc nilon xuống biển để bộ đội, dân công ra vớt. Hơn 1 giờ sau, tàu 235 chạy ven núi về phía Ninh Vân. Có tới 7 tàu địch tăng tốc đuổi theo bao vây, nã đạn, máy bay địch giội pháo sáng và đạn rốc két. Khẩu DKZ trong tay thủy thủ Hà Minh Thật, Nguyễn Văn Phong giội thẳng về phía địch khiến một tàu bốc cháy.

Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra ác liệt, 5 người trên tàu 235 hy sinh, 9 người bị thương. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh vẫn bám buồng lái, tính phương án kích bộc phá dưới hầm trước rồi cho tàu 235 lao thẳng vào tàu chiến của địch nhưng không may tàu hỏng máy, tất cả bơi vào phía núi để phá hủy tàu. Khi anh Vinh cùng đồng đội vào bờ thì tàu 235 nổ tung, địch tập trung lực lượng bao vây một góc núi Hòn Hèo.

Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ cầm súng đánh trả tới viên đạn cuối cùng và đã hy sinh. 7 người còn lại dìu nhau vào núi suốt 10 ngày không lương thực, nước uống. Đến ngày thứ 11 thủy thủ Mai Văn Khung bị địch bắt khi tìm nước uống. Ngày thứ 12 liên lạc được du kích bến Hòn Hèo, nhưng thuyền phó Đoàn Văn Nhi mất tích. 5 người may mắn trở về đơn vị là Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Lê Duy Mai, Vũ Long An và Lâm Quang Tuyến.

Nhớ lại sự kiện đó, ông Nguyễn Bá Cường (trú ở phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa; nguyên Trưởng trạm xá căn cứ Hòn Hèo, nguyên Bí thư Huyện ủy Ninh Hòa) kể: “Sau khi đất nước thống nhất, một người dân Ninh Vân phát hiện hài cốt thuyền phó Đoàn Văn Nhi trong một hang đá, cạnh đó có khẩu súng K54”.

Vợ ông Cường, bà Phạm Thị Hường – nguyên y tá căn cứ Hòn Hèo tâm sự : “Khi đưa 5 người còn lại về trạm xá, nhìn họ bị thương và kiệt sức, không ai cầm được nước mắt. Địch bao vây nên anh em ở căn cứ chỉ sống nhờ khoai núi, nhưng ai cũng muốn dành phần nhiều cho 5 thủy thủ”. Năm 1970, liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND, tên của anh hóa thành tên một hòn đảo ở huyện đảo Trường Sa.

Ba chiếc tàu không số đã được phá hủy trước khi địch thực hiện mưu toan chiếm đoạt. Hình hài những con tàu đó không còn nữa, nhưng tên tuổi mỗi tàu và chiến công huyền thoại của những sĩ quan Hải quân vẫn còn sống mãi với thời gian và lịch sử để các thế hệ cháu con luôn ngưỡng mộ và tự hào.

Trong Tạp chí “Lượt sóng” Hải quân ngụy thời đó đã phải thừa nhận kỳ tích anh hùng của Hải quân tàu 235: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam Cộng hoà có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với 1 tiểu đoàn Việt Cộng (thực tế 20 người - PV) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự huỷ không để lại một dấu vết…”.
Hữu Toàn

.
.
.