Độc, lạ điệu múa cổ đất Hà thành

Thứ Hai, 05/03/2018, 09:27
Điệu múa bồng làng Triều Khúc (xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội) giờ đây đã trở nên quá quen thuộc với người dân đất Hà thành. Thế nhưng ít ai biết được đây là điệu múa cổ nhất xứ Hà thành được lưu giữ nguyên bản đến nay là do chính các "nam thanh" của làng Triều Khúc thể hiện.


Những ngày này đến làng Triều Khúc vẫn còn thấy không khí lễ hội vẫn rộn ràng dù hội làng đã qua vài ngày. Hội làng Triều Khúc diễn ra từ ngày 9 đến ngày 12 tháng Giêng âm lịch hằng năm.

Theo người làng, trong lễ hội có rước kiệu, xung quanh là 6-10 thanh niên đóng giả làm đàn bà con gái đi theo "ve vãn" chung quanh những người khiêng kiệu và nhảy múa mà dân gian gọi là điệu múa "con đĩ đánh bồng". Đó là nghi thức quan trọng, thiêng liêng và cũng là nét rất riêng của hội làng Triều Khúc do chính các chàng trai thanh tú nhất của làng thể hiện.

Vũ công làng Triều Khúc biểu diễn điệu múa "con đĩ đánh bồng".

May mắn chúng tôi được gặp nghệ nhân dân gian Triệu Đình Hồng (SN 1946), chủ nhiệm câu lạc bộ (CLB) múa bồng làng Triều Khúc và được ông kể cho tỉ mỉ về lịch sử cũng như điểm độc lạ của điệu múa có một không hai này. Ông Hồng cũng là một trong những nghệ nhân hiếm hoi gắn bó và theo đuổi đam mê với điệu múa "con đĩ đánh bồng".

"Từ chiều mồng 9 toàn dân rước tượng Thánh từ đình thượng xuống đình hạ (đại đình) của làng là nơi tập trung toàn dân cử hành các nghi lễ chính. Sang ngày mồng 10, đội múa bồng sẽ múa làm lễ nhập tịch. Đến chiều ngày 12, các vũ công lại múa để rước tượng Thánh hoàn cung. Khi hầu Thánh chỉ múa trong ba tuần rượu, sau khi ra đường làng, rước kiệu quanh xóm thì mới múa thoải mái để nhân dân thưởng thức.

Nhiều người khi nghe nhắc tới điệu múa lẳng lơ không khỏi thắc mắc hai chữ "con đĩ" nhưng "con đĩ" có nghĩa là "con gái" chứ không phải hàm ý nói về một bộ phận phụ nữ làm "nghề" "buôn phấn bán hoa" mà xã hội thường nghĩ.

Sau này các "con đĩ" được khoác lên mình tên gọi hiện đại là các vũ công, nhưng có lẽ cái tên sơ khai vẫn "hot" nên được giữ lại. Thậm chí câu nói "lẳng lơ như con đĩ đánh bồng" trở thành câu nói thường xuyên của nhiều người Hà thành", ông Hồng cho hay.

Điệu múa "con đĩ đánh bồng" thoạt nhìn tưởng chừng như đơn giản thế nhưng trên thực tế, việc luyện tập đòi hỏi kĩ thuật khá cao. Chưa kể việc lựa chọn người múa phải trải qua nhiều khâu cực kì kĩ lưỡng. Từ cuối năm trước, ban tổ chức lễ Thánh đã phân công người tuyển chọn vũ công cho lễ rước Thánh năm sau.

Trước tiên các thanh niên được chọn phải là người gốc làng Triều Khúc. Sau đó ban tổ chức sẽ kiểm tra ba tiêu chí cốt lõi gồm: Gia đình người được chọn không vướng tang gia. Thứ hai, gia đình vũ công sống hòa thuận, đề huề.

Cuối cùng, "con đĩ" tuyệt đối không "dính" đến tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy, phạm pháp. Đã có nhiều trường hợp vũ công được chọn múa nhưng sau đó bị loại vì che giấu "dớp" trong quá khứ. Sau khi được tuyển chọn, các vũ công cùng nhau luyện tập tìm kiếm sự ăn ý, hòa hợp.

Họ được chia thành nhiều đội thay phiên nhau biểu diễn liên tục trong suốt lễ hội. Mặc dù đội múa không được nhận bất kì khoản thù lao nào nhưng người nào được chọn đều lấy đó là niềm vinh dự lớn.

Bởi dân làng Triều Khúc quan niệm được vào đình lễ Thánh đầu năm sẽ mang lại nhiều may mắn cho bản thân, gia đình. "Luật bất thành văn" duy trì hàng trăm năm nay là không dạy múa bồng cho người ngoài làng. Cũng vì lý do bảo tồn nguyên bản này mà múa bồng có khoảng thời gian vắng bóng.

Nghệ nhân Hồng biểu diễn động tác múa bồng.

Ông Hồng kể, múa bồng duy trì tới khoảng năm 1954 - 1955 thì gián đoạn. Đến những năm cuối thập niên 60, điệu múa mới được khôi phục nhưng rất ít người tham gia.

Mãi đến cuối những năm 1980, dân làng Triều Khúc mới bắt đầu "hồi sinh" điệu múa. Qua thời gian, vũ điệu "lẳng lơ như con đĩ đánh bồng" trở thành tiết mục nghệ thuật dân gian nức tiếng của làng Triều Khúc.

Múa bồng là quá trình lặp đi lặp lại ba động tác múa cơ bản. Điệu thứ nhất, các vũ công lượn đi lượn lại rồi quay mặt vào nhau, trao nhau ánh mắt tình tứ. Điệu múa thứ hai, từng cặp "con đĩ" nhảy lùi chân, luồn người qua nhau và tựa lưng vào nhau trong tư thế tay nắm hình chữ o, mắt liếc đong đưa.

Điệu múa cuối cùng, cặp vũ công quay mặt vào nhau đắm đuối. Cứ thế các vũ công lặp đi lặp lại ba động tác trên tạo thành bài múa bồng. Mỗi bài múa trọn vẹn 3 động tác chỉ kéo dài khoảng 5 phút. Ba điệu múa tưởng đơn giản nhưng đòi hỏi kĩ năng biểu diễn cao.

Khó nhất là các "con đĩ" vừa đánh trống treo trước bụng vừa múa cùng nhịp với tiếng trống của đội nhạc. Đặc biệt, khi hầu lễ Thánh ở đình, tiếng trống biểu diễn múa bồng phải "khớp" với tiếng trống cử hành nghi lễ bên trong đình.

Bởi vậy mới có câu trong múa bồng, nhạc lễ và nhạc trống bồng hòa làm một. "Động tác các vũ công phải đều nhau, cùng theo nhịp trống. Nhưng quan trọng hơn nữa là cử chỉ, vẻ mặt các con đĩ phải thật đong đưa, lẳng lơ tạo nên không khí vui tươi, chọc người xem cười", ông Hồng chia sẻ.

Bởi vậy mà tất cả vũ công đều mặc trang phục sặc sỡ, mặc váy yếm đào, cài khăn mỏ quạ và được tô son điểm phấn bắt mắt. Thậm chí các vũ công phải sử dụng thêm những phụ kiện của phụ nữ để màn đóng giả hoàn hảo nhất. Đây chính là điểm đặc sắc nhất của múa bồng.

Sở dĩ hội làng Triều Khúc không sử dụng vũ công nữ mà nam phải đóng giả bởi tôn trọng "bản quyền" của người xưa. Điệu múa bồng ngày nay giữ đúng nguyên bản ngày xưa. Nếu có thay đổi chỉ là trang phục sặc sỡ hơn. Hay tăng thêm số lượng "con đĩ" múa, thế nhưng vẫn không làm mất "cốt cách" điệu múa.

Mỗi nghi lễ của một lễ hội đều mang một ý nghĩa nhất định. Điệu múa bồng cũng thế. Theo những người cao niên trong làng, trước tiên, điệu múa thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn", tưởng nhớ công lao các anh hùng dân tộc có công với đất nước.

Thứ hai, múa bồng thể hiện khát vọng thắng lợi mới trong mùa xuân mới. Vũ điệu đòi hỏi sự phối hợp ăn ý giữa các "con đĩ", giữa đội nhạc với vũ công thể hiện tinh thần đoàn kết toàn dân.

Vũ công làng Triều Khúc biểu diễn "điệu múa lẳng lơ".

Điệu múa dưới mô típ các "con đĩ" ẻo lả chọc ghẹo những người rước tượng Thánh còn ngụ ý răn dạy con cháu Triều Khúc đã là nam nhân phải tu chí phấn đấu, không dễ bị "hút hồn" bởi nữ nhân mà quên nghiệp lớn. Song sự thâm thúy của người xưa khi sáng tác vũ điệu múa bồng còn thể hiện ở ý nghĩa tâm linh. Theo đó, trước đây chỉ có một cặp "con đĩ" biểu diễn tượng trưng cho mặt trời.

Còn sáu vũ công tượng trưng cho "quả đất hình vuông" theo quan niệm ngày xưa: "Mặt trời quay quanh trái đất. Các vũ công phải múa xoay vòng quanh đội nhạc theo chiều ngược kim đồng hồ. Bởi vậy, có thể nói điệu múa mang khí tiết trời đất", ông Hồng chia sẻ.

Sở dĩ múa bồng phát triển như hôm nay, theo lời ông Hồng là nhờ công lao của các bậc tiền bối trong làng. Thời gian mới khôi phục lại lễ Thánh, đội vũ công múa bồng đều là người lớn tuổi. Về sau dân làng khuyến khích con cháu tự học múa giúp tạo nên những thế hệ vũ công kế tục.

Cách đây gần chục năm, những người đứng đầu làng Triều Khúc mạnh dạn nhờ các trường học đóng tại địa phương hỗ trợ lồng ghép dạy múa bồng cho học sinh trong giờ thể dục, ngoại khóa. Đặc biệt từ năm 2015, CLB múa bồng làng Triều Khúc chính thức ra đời.

Đến nay CLB đã có trên 30 thành viên sinh hoạt thường xuyên là tín hiệu vui để kế thừa và phát triển điệu múa này. Tuy nhiên, theo nghệ nhân Hồng, để điệu múa phát triển hơn nữa có thể phải nghĩ đến chuyện lan tỏa, tức dạy múa cho tất cả những ai đam mê, yêu nghề chứ không chỉ gói gọn phạm vi người gốc làng.

"Học múa bồng không khó, trước hết người vũ công phải có tính hài hước, biết diễn trò, không ngại ngùng. Nhưng điều quan trọng nhất phải đam mê, giàu tinh thần nhiệt huyết vì cộng đồng. Có lẽ đã đến lúc đưa điệu múa truyền thống ra khỏi cổng làng, vươn cao vươn xa hơn nữa", chủ nhiệm CLB múa bồng tự hào chia sẻ.

Làng Triều Khúc thờ phụng là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (?-791, người làng Đường Lâm, theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục). Sử làng chép lại, Phùng Hưng sau khi đánh thắng giặc nhà Đường ở thành Tống Bình (làng Triều Khúc bây giờ) đã mở hội khích lệ quân sĩ bằng cách cho binh lính giả nữ múa hát.

Điệu múa có tên "con đĩ đánh bồng" hay còn gọi múa bồng ra đời từ đó, ước tính khoảng vào thế kỉ VII. Sau này các nhà nghiên cứu văn hóa mới tìm hiểu, đưa ra khái niệm múa bồng là tiết mục diễn xướng mang hình thức nghệ thuật dân gian.

Từ chỗ chỉ biểu diễn trong lễ Thánh ở làng, điệu múa bồng vinh dự được chọn phục vụ trong chương trình biểu diễn kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. Vào năm 2000, đội múa làng Triều Khúc còn vinh dự được UBND TP Hồ Chí Minh mời biểu diễn nhân kỉ niệm 25 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Mai Ngọc
.
.
.