Xem xét vai trò đồng phạm trong vụ Tổng Giám đốc Công ty Thái Hoà chiếm đoạt tiền vay của ngân hàng

Thứ Hai, 22/04/2019, 10:39
Nguyễn Văn An (SN 1956, nguyên Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Thái Hòa) và vợ là Ngô Thị Hạnh (SN 1963, nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty Thái Hòa) vừa phải hầu toà để xét xử theo trình tự phúc thẩm vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hàng trăm tỷ đồng từ việc làm thủ tục vay vốn ngân hàng. 


Trước đó vào tháng 8- 2018, HĐXX sơ thẩm TAND TP Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo An 20 năm tù và bị cáo Hạnh 13 năm tù cùng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau phiên toà sơ thẩm, hai vợ chồng bị cáo kháng cáo kêu oan.

Theo bản án sơ thẩm, Công ty Thái Hòa có quan hệ tín dụng với một ngân hàng và được cấp hạn mức 200 tỷ đồng. Cuối năm 2010, do không có tiền để trả nợ nên vợ chồng An tiếp tục đề nghị ngân hàng cho vay vốn để thu mua cà phê, nhưng trên thực tế thìcác bị cáo dùng tiền vay để đáo nợ ngân hàng. Để được giải ngân, bị cáo An và bị cáo Hạnh đã chỉ đạo cấp dưới và trực tiếp lập khống hợp đồng kinh tế, hóa đơn giá trị gia tăng, phương án kinh doanh.

Công ty Thái Hòa sau đó đã ký 4 hợp đồng tín dụng với ngân hàng, tài sản đảm bảo là sổ tiết kiệm, nhà đất ở tỉnh Đồng Nai và cổ phần của Công ty cổ phần Cà phê An Giang… với tổng giá trị 56 tỷ đồng. Ngoài ra, ngân hàng yêu cầu Công ty Thái Hoà có thêm biện pháp bổ sung là phải mua bảo hiểm hàng hóa với giá trị 150 tỷ đồng. Sau đó ngân hàng đã giải ngân cho Công ty Thái Hoà 184 tỷ đồng.

Hai bị cáo An và Hạnh tại phiên toà.

Số tiền này, vợ chồng bị cáo An đã trả nợ cho ngân hàng 156 tỷ đồng để và sử dụng 22,5 tỷ đồng trả nợ cho các ngân hàng khác. Cáo trạng xác định, hai bị cáo An và Hạnh đã chiếm đoạt của ngân hàng số tiền 127 tỷ đồng nợ gốc và 92,5 tỷ đồng nợ lãi.Tuy nhiên, bản án sơ thẩm chỉ xác định hai bị cáo chiếm đoạt 27 tỷ đồng là số tiền hai bị cáo sử dụng để trả nợ cho khoản vay tại các ngân hàng khác.

Tại phiên xử phúc thẩm, nhiều mâu thuẫn từ tài liệu trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo, lời khai của nhân chứng đã xuất hiện. Trong khi hai bị cáo An - Hạnh và một số nhân chứng là cán bộ, nhân viên Công ty Thái Hòa cho rằng, năm 2011, công ty đã trả cho ngân hàng số tiền 34 tỷ đồng. Đối chiếu với bản án của Toà án cấp sơ thẩm cho thấy, số tiền này lớn hơn số tiền bản án sơ thẩm xác định.

Một mâu thuẫn nữa xuất hiện ngay từ cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm, đó là  trong hồ sơ vụ án có 5 hợp đồng bảo hiểm liên quan đến Công ty Thái Hoà và ngân hàng, nhưng bản cáo trạng chỉ xác định có 2 hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định của pháp luật thì việc kết luận các hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hay vô hiệu là phải có phán quyết của Tòa án.

Nhưng ở vụ án này, cáo trạng lại kết luận việc này là chưa đúng quy định của pháp luật và có thể gây bất lợi cho phía công ty hoặc phía ngân hàng.Trong hồ sơ vụ án, cơ quan tố tụng cũng chưa thu thập tài liệu các hợp đồng vay và trả tiền từng giai đoạn, đồng thời chưa có đối chiếu việc Công ty Thái Hoà trả nợ ngân hàng là có thật hay không(?).

Quá trình xét xử ở hai cấp toà, các bị cáo đều khai, việc làm khống các giấy tờ theo giải thích và hướng dẫn của cán bộ ngân hàng để đảm bảo hồ sơ vay vốn chặt chẽ và tránh sự kiểm tra của cấp trên. Nhưng lời khai này chỉ xuất phát từ phía bị cáo mà chưa có sự kiểm chứng của Toà án cấp sơ thẩm...

Sau khi chỉ ra nhiều điểm mâu thuẫn giữa kết luận điều tra, cáo trạng và bản án sơ thẩm như trên, HĐXX phúc thẩm nêu quan điểm, việc Toà án cấp sơ thẩm xác định số tiền mà hai bị cáo An và Hạnhchiếm đoạt của ngân hàng là mâu thuẫn với kết luận điều tra và cáo trạng.

Mặt khác trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm không trả hồ sơ yêu cầu làm rõ việc,Công ty Thái Hoà đã thanh toán các khoản vay nào và thanh toán bao nhiêu tiền là chưa làm rõ số tiền chiếm đoạt(?). Một nội dung quan trọng nữa được HĐXX phúc thẩm nêu ra, đó là bản chất của vụ án đã thể hiện rõ hành vi vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Quá trình xét xử ở hai cấp toà, lời khai của các bị cáo và nhân chứng đều khẳng định, để vay được số tiền gần 200 tỷ đồng đã có sự giúp đỡ của một số cán bộ, nhân viên ngân hàng. Và nếu lời khai của các bị cáo và nhân chứng là đúng thì việc xác định các bị cáo có đồng phạm là có căn cứ.

Từ những phân tích, đánh giá trên, HĐXX phúc thẩm quyết định xác định, những mâu thuẫn trong vụ án này là rất nhiều và đều không thể bổ sung được ngay tại phiên toà phúc thẩm. Vì thế cần phải điều tra lại vụ án theo thủ tục chung cho đầy đủ chứng cứ, tài liệu thì mới có thể xác định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với phán quyết trên, HĐXX phúc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội, yêu cầu điều tra, xét xử lại từ cấp sơ thẩm.

Nguyễn Hưng
.
.
.