Theo bước quân hành với "Lời ru ngọn cỏ" của nhà báo, nhà thơ Bùi Văn Bồng
Đại tá Bùi Văn Bồng vốn là sinh viên, rồi xếp bút nghiên tình nguyện đi bộ đội tham gia chống Mỹ, cứu nước. Vì thế, thơ anh vẫn phảng phất cuộc sống mà anh đã trải qua: Một thời đạn bom, một thời hòa bình.
Vẫn mạch thơ trong trẻo theo "khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn" từ tập "Gửi gió trời Nam", trong "Lời ru ngọn cỏ", Bùi Văn Bồng đem đến cho bạn đọc một sắc diện mới tỏa sáng hơn về truyền thống anh dũng, vẻ vang của anh Bộ đội Cụ Hồ. "Tập thơ là sự tri ân đối với những người con của dân tộc đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và với những người lính đang hiến dâng phần đời còn lại của mình để dựng xây đất nước mạnh giàu thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập và phát triển" - anh bộc bạch.
65 bài thơ trong "Lời ru ngọn cỏ" được Bùi Văn Bồng sáng tác ở nhiều thời điểm khác nhau. Mỗi bài thơ là một bông hoa tượng trưng cho một năm tuổi của Quân đội ta. "Tôi là bộ đội thời kỳ chống Mỹ, cứu nước nên khi nhìn lại dấu xưa, tôi rất khâm phục cha anh trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng được viết nên từ trong gian khổ, thiếu thốn".
Đoàn quân lớn lên từ không đến có
Từ nhỏ nhoi thành cao lớn phi thường
Cũng nhờ mỗi củ khoai hạt lúa
Nhờ hòn than giấu lửa suốt mùa mưa.
Bùi Văn Bồng hầu như đã đặt chân lên khắp mọi miền đất nước trong những ngày cầm súng thời chiến và cầm bút trên mặt trận báo chí khi hòa bình. Vì vậy, mỗi bài thơ đều toát lên chất lính qua cách nhìn, cách cảm chân thành mà sâu lắng nhất vẫn là những ký ức về bóng hình đồng đội nơi chiến trường khói lửa năm xưa:
Nhớ rừng năm ấy bom rung
Chao nghiêng cánh võng buộc chung cây sồi
(Cánh rừng năm ấy)
Các anh ra đi chỉ mới đôi mươi và không ít người nằm lại nơi chiến trường ác liệt. Những người ở lại chỉ còn biết:
Trước bàn thờ hương hoa sớm tối
Giọt lệ buồn khóe mắt long lanh.
Nhìn lại những kỷ vật của đồng đội còn sót lại, như: một chiếc bi đông, một chiếc ba lô, một cái mũ cối hay một lá thư tình… lòng anh rưng rưng:
Tôi cầm kỷ vật ngẩn ngơ
U Minh đầu tháng bất ngờ trăng lên.
(Lá thư kỷ vật)
Sự hy sinh của các anh là để cho "Đất nước ta nở hoa Độc lập, kết trái Tự do". Đó là sự bất tử muôn đời:
Người hy sinh đất hồi sinh
Trái tim hóa ngọc lung linh giữa đời...
Thơ Bùi Văn Bồng ôm ấp nhiều miền quê Cách mạng gắn với bước chân quân hành của Bộ đội Cụ Hồ. Đó là Tầm Vu, lộ Vòng Cung, Trường Sa, Lộc Ninh, Phước Long, Củ Chi, Vàm Cỏ Đông, Trà Vinh, Cần Thơ, Cà Mau, Mường Lèo, Tà Vát,… Và có địa danh, chỉ nhắc đến thôi, cả dân tộc Việt
Khi gió cát chuyển mùa trên Côn Đảo
Những cây bàng cuối vụ đỏ lá bay
Cái màu đỏ trên sắc cờ năm ấy
Máu đào rơi còn nhuộm những áng mây
(Lá bàng Côn Đảo)
Người đọc thơ Bùi Văn Bồng cũng có dịp vào tận tâm hồn người lính trong phút giây tạm dừng chân hành quân bên đường. Những vần thơ tươi mới về tình yêu của người lính với nhiều cung bậc ở các bài: Bến trăng, Tình yêu nửa đời, Phù sa và nắng, Chiều mưa Giai Xuân, Tình yêu lính đảo, Đổi gió, Khoảng trời thông xanh, Cánh ô đợi chờ, Chiều xa, Con sóng…
Và trong rì rào của nghìn trùng, nghe bộc bạch của lính đảo Trường Sa, ai dám bảo trái tim người lính khô khan:
Lính đảo nói rằng lính đảo thương
Một cô bạn học buổi tan trường
Mắt như tiên nữ sa trần thế
Mái tóc đen mềm ai ướp hương.
(Tình yêu lính đảo)
Sắp bước vào tuổi 60 nhưng cái chất lính dí dỏm và lãng mạn trong Bùi Văn Bồng không bao giờ cạn. Anh viết về quê hương, đất nước, lễ hội, gia đình, tình bạn, tình yêu luôn tươi mới, mang đậm sắc màu cuộc sống, làm vợi đi nỗi đau chiến tranh, hướng con người tới chân, thiện, mỹ.
Lúng liếng mắt ai mở gió vin cành
Mùa trái chín ngọt lành quê ngoại
Những chân trần dính phù sa dầu dãi
Tụ về đây lễ hội mùa xuân.
(Lễ hội mùa xuân)
Bùi Văn Bồng bộc bạch rằng, người cầm bút trước hết phải sống thật, thật với chính mình và thật với các mối quan hệ xã hội. Sống thật thì viết mới trải lòng mình, gửi tâm tư, tình cảm vào từng con chữ, suy nghĩ ấy đã được Bùi Văn Bồng thể hiện rõ nét trong “Lời ru ngọn cỏ"