TS.Nguyễn Xuân Diện: Để gìn vàng giữ ngọc

Chủ Nhật, 03/08/2008, 21:55
Trong thời buổi lớp trẻ ít quan tâm đến văn hóa cổ, TS Nguyễn Xuân Diện, Phó giám đốc Thư viện Hán Nôm (Viện Hán Nôm) là một nhà nghiên cứu trẻ đáng chú ý với nhiều phát hiện mới và sâu sắc về văn hóa dân tộc. Trong đó công trình nghiên cứu về ca trù của anh được đánh giá cao.

Nguyễn Xuân Diện có nhiều buổi thuyết trình về ca trù (anh thường tự hát ca trù để minh họa) độc đáo, hấp dẫn. Là một người Hà Tây (đến hôm nay thì có thể gọi là Hà Tây cũ), TS. Nguyễn Xuân Diện quan tâm nhiều đến di sản văn hóa xứ Đoài.

Thưa anh, Hà Tây là tỉnh có số lượng di tích lịch sử và văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể lớn nhất nước, khi sáp nhập với Hà Nội - nơi có số lượng lớn thứ 2, Hà Nội mới sẽ mang trong mình một giá trị di sản văn hóa khổng lồ. Điều này vừa là niềm tự hào của Thủ đô nhưng chắc chắn cũng là một trách nhiệm nặng nề?

Hà Tây là tỉnh có nhiều di tích nhất cả nước (trong đó có nhiều di tích được liệt vào hạng đặc biệt quan trọng của quốc gia: Chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Bối Khê, chùa Thầy, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, rồi làng Việt cổ Đường Lâm,...). Mỗi một ngôi đình, đền, chùa này lại không đơn giản chỉ là một hiện vật bảo tàng, mà xung quanh đó, hàng ngày, hàng giờ vẫn diễn ra các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Vì vậy, nó chính là một bảo tàng sống động về văn hóa.

Tôi rất lo ngại mỗi khi chúng ta đụng đến đâu đó để sửa chữa, tu bổ. Đã có quá nhiều bài học về tôn tạo tu bổ di tích. Cũng đã có quá nhiều bài học về việc cải biên, cải tiến cho các văn hóa phi vật thể như chèo, nhã nhạc cung đình, quan họ… Tu bổ như thế nào, quản lý như thế nào, bảo vệ cổ vật thế nào, thậm chí phải giữ đất cho di tích như thế nào để khỏi bị xâm chiếm cũng là vấn đề đang được đặt ra với rất nhiều khó khăn, phức tạp.

Thực ra trong những năm qua, nhiều di tích ở Hà Tây đã được bảo tồn khá tốt (như chùa Tây Phương, đình Tây Đằng...). Cơn lốc đô thị hóa nông thôn sắp tới sẽ mang nhiều nguy cơ cho di sản?

Chúng ta đều biết là làng Việt đã là nơi cất giữ gần như toàn bộ gia sản văn hóa của tổ tiên chúng ta. Kiến trúc đình, chùa, miếu và các nhà ở dân gian là kết tinh sự hiểu biết của người xưa về môi trường, về kiến trúc và quan niệm về sự ở của tổ tiên chúng ta. Lũy tre xanh và cách bố trí dân cư theo hình xương cá hoặc bố trí dọc theo nguồn nước là cách tự vệ và sự tuân thuận theo tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên - một triết lý của người Việt.

Làng Việt chính là nơi cất giữ văn hóa Việt. Chính làng Việt đã bảo vệ văn hóa Việt Nam khỏi cuộc đồng hóa của Tàu, của Tây từ hàng ngàn năm nay, làm nên sức mạnh đề kháng của văn hóa Việt Nam, tạo nên bản sắc và bản lĩnh văn hóa Việt Nam.

Vì thế, trước cơn cuồng phong của đô thị hóa như một quy luật tất yếu của thời đại mới, trong cơn mưa Âu gió Á này, làng Việt cổ truyền thống đang dần biến mất, thì chính là lúc văn hóa Việt bị đe dọa nhất. Nếu chúng ta không giữ được làng Việt thì cũng sẽ không giữ được văn hóa Việt. Và đương nhiên nếu không giữ được văn hóa Việt thì chuyện mất sức đề kháng, bị đồng hoá, bị văn hóa ngoại lai đánh gục là một nguy cơ trông thấy.

Về di sản văn hóa phi vật thể, xứ Đoài đóng góp những giá trị nào cho Thủ đô và phải làm gì để cho nó đỡ mất mát?

Hà Tây là tỉnh có nhiều dân ca nhất nước (Ca trù, Hát Dô Liệp Tuyết, Hát Chèo Tàu, Hát Chèo, Hát Tuồng Dương Cốc, Hò Phú Nhiêu,...). Rồi còn ca dao hò vè, truyện kể dân gian, còn phong dao tục ngữ nữa chứ.

Xưa kia, chiếng chèo Đoài là một chiếng lớn, đặc sắc. Năm 1957, thành lập Đoàn chèo Cổ Phong. Đoàn chèo Cổ Phong có trong tay các nghệ nhân danh tiếng, làm nên một thương hiệu rất đáng nể. Từ đó đến nay, chèo Hà Tây vẫn được truyền dạy và tiếp nối. Sắp tới đây, không biết ngành văn hóa sẽ xử lý ra sao với Đoàn Chèo Hà Tây. Nếu gọi Nhà hát Chèo Hà Nội là Đoàn 1, Nhà hát Chèo Hà Tây là Đoàn 2, thì riêng một cái tên ấy cũng là đã chém chèo rồi. Theo tôi, vẫn cứ để hai đoàn chèo này, mỗi đoàn có nét đặc sắc riêng và nên để cái tên: Nhà hát chèo Cổ Phong, bên cạnh Nhà hát Chèo Thăng Long - Hà Nội.

Theo tôi, ngành văn hóa nên tuyệt đối tôn trọng Vùng văn hóa của mỗi nơi, mà cụ thể Văn hóa Hà Nội mở rộng sẽ có ba vùng: Vùng Văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Vùng Văn hóa Xứ Đoài (các huyện phía Bắc tỉnh Hà Tây) và Vùng Văn hóa Sơn Nam Thượng (các huyện phía Nam tỉnh Hà Tây). Đặc sắc văn hóa là ở đó, và việc tôn trọng văn hóa vùng phải là kim chỉ nam cho công tác chỉ đạo làm văn hóa.

Đúng là có quá nhiều lo ngại khi sáp nhập 2 vùng văn hóa nhưng cũng rất hay là sắp tới chúng ta sẽ có nhiều cái để giới thiệu với khách du lịch hơn là chỉ quẩn quanh Hồ Gươm, Văn Miếu, chùa Một Cột?

Hà Tây có 1.110 di tích đã xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh (trong đó có nhiều di tích được liệt hạng đặc biệt quan trọng của quốc gia: Chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Bối Khê, chùa Thầy, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, làng Việt cổ Đường Lâm...). Thì bao nhiêu năm nay, các di tích đó là của Hà Tây, do tỉnh ấy quản lý, nhưng nó vẫn là địa chỉ đến của du khách Hà Nội đấy chứ phải không chị. Tỉnh Hà Tây, chùa Hà Tây, có đóng cửa bao giờ đâu.

Tôi nhớ có lần tại một hội thảo khoa học, anh đã trình bày một tham luận trong đó có nói rằng Hà Tây là đất Ca trù kề bên Thăng Long Hà Nội. Vậy nay, khi không còn là "kề bên", ca trù của Hà Tây (cũ) nên được "gìn vàng giữ ngọc" như thế nào?

Hà Tây là một cái nôi của Ca trù. Tôi đã khảo sát thấy Hà Tây có 31 văn bia liên quan đến Ca trù, trên tổng số 70 văn bia Ca trù của cả nước. Hà Tây có nhiều đền thờ tổ Ca trù, nhiều trung tâm Ca trù rất nổi tiếng như: Phượng Cách (Quốc Oai), Thượng Mỗ (Đan Phượng), Ngãi Cầu (Hoài Đức), Quảng Nguyên, Vân Đình (Ứng Hòa), Ba La Bông Đỏ (Hà Đông), …

Mới đây nhất, ngành Văn hóa Hà Tây còn phát hiện giáo phường ca trù Thôn Chanh (Phú Xuyên). Tôi và nhạc sĩ Đặng Hoành Loan đã về thăm và ghi âm, ghi hình và nhận ra đây chính là một giáo phường Ca trù có bề dày rất đáng ghi nhận.

Tôi mong ngành văn hóa sẽ gìn giữ những "báu vật nhân văn" của Ca trù trên đất Hà Tây (cũ). Mà chẳng phải chỉ ca trù đâu, nói chung, tôi mong ngành văn hóa sẽ bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Hà Tây thật trọn vẹn. Và xin mượn câu Kiều để nhắn gửi rằng:

Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời!

Xin cảm ơn anh!

Cẩm Thuý (thực hiện)
.
.
.